Sau khi hai chiếc F-14 Tomcat của phi đoàn VF-41 Black Aces bắn rơi 2 máy bay cường kích Su-22 của Libya ngày 19/8/1981, và đặc biệt là sau chiến dịch không kích El Dorado Canyon ngày 15/4/1986 đối với Libya, Đại tá Gaddafi và chế độ của ông ta đã không còn là mối quan tâm của Mỹ.
Nhưng cuối năm 1988, căng thẳng giữa Washington và Tripoli lại tiếp tục leo thang. Chính phủ Mỹ cáo buộc Libya xây dựng một nhà máy vũ khí hóa học gần thị trấn Rabta, và một lần nữa, chính quyền Gaddafi cảnh báo Mỹ không được can thiệp vào công việc nội bộ của Libya. Để đáp trả mối đe dọa của Đại tá Gaddafi, tàu sân bay USS John F. Kennedy (CV-67) được cử đi thực hiện một cuộc diễn tập “tự do hàng hải” ngoài khơi bờ biển Libya.
Buổi sáng 4/1/1989, bốn cặp máy bay tiêm kích hạm F-14, trong đó có 2 cặp của phi đoàn VF-14 Tophatters và 2 cặp của phi đoàn VF-32 Swordsmen, bay tuần tra chiến đấu (CAP) gần Vịnh Sidra, cùng một chiếc E-2C của phi đoàn cảnh báo sớm đường không WAV-126 Sea Hawks hỗ trợ.
Trong nhiều năm, do lo ngại khủng bố, phi hành đoàn này đã phải giữ kín danh tính, nhưng đến nay, chúng ta biết rằng hai cặp phi công của phi đoàn VF-32 tham dự tập trận là Buno.159.610, mật danh liên lạc “Gipsy 207” do phi công Joseph B. Connelly và Leo F. Enwright là sĩ quan hoa tiêu radar (RIO) điều khiển và Buno.159.437, mật danh liên lạc “Gipsy 202”, do Trung úy Hermon C. Cock III và Thiếu tá Hải quân Steven P. Collins là sĩ quan hoa tiêu radar (RIO) điều khiển.
Hai chiếc F-14 được trang bị 4 tên lửa tầm trung AIM-7 Sparrows và 2 tên lửa tầm ngắn AIM-9 Sidewinder. Sau khi được một máy bay KA-6D Intruder tiếp nhiên liệu, hai chiếc F-14 với mật hiệu Gipsy 207 lập tức trở lại chiến đấu khẩn cấp, bởi máy bay cảnh báo sớm E-2 Hawk Eye đã báo động có 2 máy bay chiến đấu Libya cất cánh từ sân bay Al Bumbah.
Gần như ngay lập tức, các máy bay chiến đấu F-14 thiết lập đường dây liên lạc radar ở cự li 115km. Đây là một thủ tục để cảnh báo các máy bay Libya rằng họ đã bị F-14 theo dõi.
Các phi công Mỹ đã “nhiều lần thuyết phục phía Libya”, nhưng hai máy bay này vẫn lao tới.
Các máy bay F-14 bắt đầu tham chiến, chiếm góc 30 độ sau lưng các máy bay chiến đấu của đối phương, nhưng phía Libya phá thế bất lợi này bằng một đường lượn vòng rất nhanh. Các máy bay F-14 cũng liên tục cơ động, sẵn sàng bảo vệ tàu sân bay USS Kennedy.
Vài phút sau, cuộc chiến thật sự bùng nổ. Chuẩn Đô đốc Paul t.Gillcrist kể lại trong cuốn sách của ông: Tomcat! The Grumman F-14 Story.
“Lúc 11:58, các máy bay chiến đấu của Mỹ giữ độ cao 914m và tốc độ 879km/h, trong khi đó hai máy bay Libya xông tới ở cự li 85km, và càng lúc càng gần. Để tránh đối đầu với các máy bay đối phương có trang bị tên lửa không đối không dẫn bắn bằng radar, các máy bay F-14 cơ động giành ưu thế chiến thuật.
Chưa đầy một phút sau đó, vào 11:59:16, các máy bay chiến đấu Libya, được hỗ trợ bởi radar mặt đất, đã quay trở lại tiến về phía các máy bay F-14 với tốc độ khoảng 1.852km/h. Người chỉ huy tác chiến trên không của USS Kennedy truyền tới hai cặp máy bay của phi đoàn Swordsmen tín hiệu mã hóa: “Cảnh báo màu vàng, giữ vũ khí, tôi nhắc lại, cảnh báo màu vàng, giữ vũ khí”.
Cuộc liên lạc này đã gây ra một số hiểu lầm, khi nó được giải thích rằng các máy bay F-14 được lệnh bắn. Khẩu lệnh này được sử dụng để cảnh báo cho máy bay chiến đấu rằng có một mối đe dọa có thể đến (cảnh báo màu vàng), và vũ khí phải được “giữ” theo qui tắc tham chiến thời bình (ROE) vẫn được áp dụng và các máy bay chiến đấu phải đánh giá đúng thái độ thù địch hay đe dọa, hoặc chỉ để bắn để tự vệ.
Lúc 12:00:53, Enwright báo cáo: Đối phương đã chuyển hướng lần thứ 5 và cự li với các máy bay Tomcat là dưới 32km. Sau đó, các phi công Mỹ bật công tắc vũ khí. Ở cự li chính xác 20km, Enwright của Gipsy 207 đã bắn một tên lửa Sparrow và Connelly rẽ 30 độ sang trái. Trong khi đó, Cock III của phi đoàn Gipsy 204 thực hiện cơ động sang bên phải.
Bằng cách này, lúc 12:01:20 hai máy bay F-14 tiếp cận được đối phương và Enwright bắn tên lửa Sparrow thứ hai. Connelly vẫn không thể nhìn thấy các máy bay chiến đấu của Libya, nhưng ông nhận thấy rằng Gipsy 202 cũng bắn tên lửa Sparrow. Cùng lúc đó Cock III kêu lên: “Tally-ho, góc 11h. Chúng đang nhằm vào tôi”.
Tuyên bố này gây ra một số nhầm lẫn, vì Enwright tin rằng lúc bấy giờ chiếc MiG-23 của Libya đã khai hỏa và ông bắt đầu tung ra các mồi bẫy gây nhiễu. Trong khi đó, tên lửa thứ hai của Gipsy 202 đã bắn trúng một chiếc MiG-23.
Lúc 12:01:57, Gipsy 207 chiếm vị trí, ở góc 6h một chiếc MiG-23 lượn qua họ từ trái sang phải. Chiếc máy bay bị hư hỏng nặng, khói đen xì ra và phi công buộc phải nhảy dù.
Lúc 12:02:06, Connelly chọn một tên lửa Sidewinder để đánh chiếc MiG-23. Nhưng đầu dò của tên lửa không hoạt động. Enwright la lớn: “Hãy chọn Fox 2, Fox 2!”. Thoáng lưỡng lự, Connelly chuyển sang tên lửa Sparrow, nhưng rồi lại chọn tên lửa Sidewinder. Connelly bóp cò, tên lửa bắn hạ ngay chiếc MiG-23 còn lại.
Lúc 12:02:36 Connelly báo cáo với chiếc E-2C rằng họ đã “bắn hạ hai chiếc MiG-23”.
Trong những ngày sau đó, phía Libya đã cố gắng để gây nhầm lẫn bằng những khẳng định rằng đây là 2 máy bay MiG-23 trinh sát không vũ trang, nhưng các đoạn băng video ghi lại trong hệ thống TCS (Hệ thống máy quay, máy ảnh gắn dưới mũi máy bay F-14) cho thấy rõ ràng rằng MiG-23 được trang bị tên lửa không đối không, chứng minh rằng máy bay chiến đấu Libya là một mối đe dọa thực sự.