Hàng không quân sự vốn xuất hiện để vượt qua các giới hạn của công nghệ và sức chịu đựng của con người, đặc biệt là liên quan đến máy bay tiêm kích. Bay tiêm kích là việc rất nguy hiểm, ngay cả khi không có ai đang cố gắng để bắn hạ bạn.
Thiết kế một máy bay tiêm kích có tính năng tốt cũng thật khó khăn. Chỉ những thay đổi tương đối nhỏ về động cơ, vũ khí và thiết kế khung máy bay là có thể biến một cỗ máy ọp ẹp thành một cỗ máy chiến đấu ưu tú, nhiều trong số các tiêm kích tốt nhất trong lịch sử ban đầu từng bị các phi công lái chúng ngờ vực. Nhưng tình trạng ưu tú hiếm khi kéo dài lâu, nhất là trong Thế chiến I và Thế chiến II. Các máy bay tiêm kích từng thống trị bầu trời chỉ trong một năm đã trở thành “các quan tài bay” vì công nghệ và chiến thuật luôn tiến bộ.
Và do đó, sự khác biệt giữa một tiêm kích tuyệt vời và một tiêm kích khủng khiếp có thể là khá nhỏ. Điểu quan trọng là phải xác định tiêu chí. Tiêm kích là vũ khí chiến lược của quốc gia và phải được đánh giá về:
1. Máy bay đó có thất bại trong việc thực hiện các nhiệm vụ chiến thuật đặt ra cho nó không? Nó có hoạt động kém so với các đối thủ trực tiếp cùng thời của nó không?
2. Tiêm kích đó đã thể hiện mình chưa hay chỉ ở trong các nhà chứa máy bay khi người ta cần đến nó? Nó có nguy hiểm hơn cho các phi công máy bay chiến đấu hơn là cho kẻ thù không?
3. Nó có đại diện cho một sự phung phí tài sản quốc gia không?
Vậy, những tiêm kích nào là tồi tệ nhất mọi thời đại? Với mục đích đó, chúng tôi sẽ tập trung vào các tiêm kích được sản xuất 500 chiếc trở lên (số lượng sản xuất được viết trong dấu ngoặc đơn).
Royal B.E.2 (3.500)
Chuẩn bị máy bay khi chưa từng có kinh nghiệm tác chiến đường không chắc chắn là một cuộc đấu tranh đối với các phi công và kỹ sư. Royal B.E.2 là một trong những máy bay quân sự đầu tiên được đưa vào sản xuất công nghiệp quy mô lớn với khoảng 3.500 máy bay được xuất xưởng. Bay lần đầu tiên vào năm 1912, nó tiếp tục phục vụ cho đến năm 1919, với trách nhiệm giảm mạnh khi các máy bay tốt hơn ra đời.
Ở một nghĩa nào đó, B.E.2 tạo cảm hứng cho thế hệ đầu tiên của máy bay tiêm kích bằng cách thể hiện tất cả những phẩm chất mà không ai muốn có ở một máy bay tiêm kích, trong đó có tầm nhìn hạn chế, độ tin cậy kém, khó kiểm soát, tốc độ chậm và vũ khí yếu. Sự ra đời của chiếc Fokker Eindecker đã khiến B.E.2 trở nên nguy hiểm để bay. Những cải tiến thường làm tình hình thêm tồi tệ hơn là cải thiện, máy bay trở nên ngày một nguy hiểm và tai nạn gia tăng.
Thực ra cũng khó để đánh điểm kém cho một nỗ lực đầu tiên. Nhưng khó khăn và độ tin cậy kém của B.E.2, kết hợp với quyết định của Anh để duy trì nó trong biên chế khi thời hoàng kim của nó đã qua khiến nó giành được một vị trí trong danh sách này. Thật ngẫu nhiên là thất bại của Lực lượng không quân hoàng gia Anh (Royal Flying Corps) trong việc thay thế hiệu quả và kịp thời B.E.2 lại hỗ trợ tốt cho những ý kiến ủng hộ thành lập Không quân Hoàng gia Anh, lực lượng không quân độc lập đầu tiên trên thế giới.
Brewster Buffalo (509)
Một máy bay ngắn, mập lùn và xấu xí, Buffalo được đưa vào sử dụng trong cùng năm với Mitsubishi A6M Zero và Bf-109, hai máy bay vượt trội áp đảo. Được thiết kế làm tiêm kích triển khai trên cả mặt đất và tàu sân bay, Buffalo lần đầu tham chiến trong trang bị của quân đội Phần Lan khi một số đã được Mỹ chuyển giao sau cuộc chiến tranh mùa đông.
Trọng lượng tăng trong quá trình thiết kế bao gồm do trang bị vũ khí nặng hơn, chở thêm nhiên liệu và bọc giáp. Thật không may, điều đó đã làm máy bay trở nên không đủ khỏe, không thể theo kịp hoặc cơ động so với các tiêm kích tốt nhất cùng thời.
Mặc dù các máy bay Buffalo do Không quân Phần Lan sử dụng đã tác chiến tốt chống Hồng quân Liên Xô trong những ngày đầu của chiến tranh Liên Xô-Phần Lan (1941-1944), các phi công Buffalo của không quân Khối Thịnh vượng chung và Hà Lan ở Đông Nam Á đã bị tàn sát bởi các phi công Nhật Bản bay các tiêm kích Zero và Oscar. Ngoài những tính năng tồi tệ nhất, Buffalo còn hoạt động kém ở nhiệt độ cao vốn là điều kiện quen thuộc ở vùng nhiệt đới.
Các phi công Thủy quân lục chiến Mỹ gọi Buffalo đúng bằng cái tên là “quan tài bay” sau trận Midway, nơi máy bay đã tham chiến quá kém chống Nhật Bản. Nó đã nhanh chóng bị thay thế trong biên chế của quân đội Mỹ bằng đối thủ hiệu quả hơn là Grumman F4F Wildcat.
LaGG-3 (6.528)
Hiện đại hóa quân sự thường là việc cần tính đến thời gian, và Liên Xô trong những năm 1930 đã tái thiết công nghiệp quốc phòng của mình hơi quá nhanh, nhưng việc tối ưu hóa sản xuất xung quanh các công nghệ tụt hậu một bước so với nước ngoài.
Các tiêm kích LaGG-3 (Lavochkin-Gorbunov-Gudkov), bay lần đầu tiên vào năm 1940, nhưng được phát triển từ LaGG-1, là tiêm kích hàng đầu của Không quân Liên Xô trong thời gian cuộc xâm lược của Đức năm 1941, và là một thảm họa đến mức các phi công chơi chữ với tên viết tắt của máy bay mà gọi nó là “quan tài đảm bảo được đánh vecni”.
Mặc dù được đưa vào trang bị 5 năm sau Bf-109, các tiêm kích LaGG-3 về cơ bản là vô vọng trong tác chiến chống các đối thủ cùng thời của nó. Kết hợp một cách không may mắn cấu trúc bằng gỗ nhẹ với một động cơ yếu, có nghĩa là nó phải vật lộn để đạt được lợi thế chiến thuật chống lại các tiêm kích nặng hơn của Đức, nó vỡ tan thành từng mảnh khi bị bắn trúng. Kết hợp với việc huấn luyện phi công quá kém của Liên Xô, nên không mấy ngạc nhiên khi các phi công Đức và Phần Lan đã giành thắng lợi lớn đến thế chống lại các đối thủ Liên Xô của họ. Việc sản xuất LaGG-3 lẽ ra đã kết thúc vào năm 1942, nhưng công nghiệp quốc phòng Liên Xô vẫn tiếp tục sản xuất đến năm 1944.
Series tiêm kích 100: F-101 (807), F-102 (1000), F-104 (2578), F-105 (833)
Chọn một ứng cử viên tiêm kích tồi nhất mọi thời đại từ series tiêm kích F-100 thật khó. Hầu hết các máy bay series 100 được phát triển trong khi Không quân Mỹ vẫn còn chi phối bởi các tướng lĩnh xuất thân từ không quân ném bom chiến lược, và chủ yếu quan tâm đến triển vọng tác chiến hạt nhân với Liên Xô.
Bộ chỉ huy Không quân Chiến thuật Mỹ đã cố giải quyết vấn đề này bằng cách làm cho chính nó càng “chiến lược” càng tốt, khi tập trung vào các máy bay đánh chặn có thể đuổi kịp và tiêu diệt các máy bay ném bom Liên Xô, cũng như các loại tiêm kích đủ nặng để mang phóng vũ khí hạt nhân. Điều này khiến các tiêm kích của Không quân Mỹ được trang bị yếu kém để đối phó với các tiêm kích MiG nhỏ nhắn, cơ động của Không quân Nhân dân Việt Nam.
Series tiêm kích 100 không phải hoàn toàn là thảm họa. F-100 là một tiêm kích thế hệ 2 tốt, F-106 là một máy bay đánh chặn tính năng khá tốt. Các loại còn lại có những loại rắc rối có thể thấy trước do sự kết hợp vênh váo các khái niệm chiến lược và công nghệ. Các tiêm kích F-101 Voodoo của McDonnell là một máy bay đánh chặn chuyển đổi thành tiêm kích-bom, một sự kết hợp gần như vô nghĩa. Nó chủ yếu hoạt động như một máy bay trinh sát. Các máy bay F-102 Delta Dagger của Convair kém cỏi cả trong vai trò máy bay đánh chặn và tiêm kích-bom, chỉ tham chiến một thời gian ngắn ở Việt Nam trước khi trở thành một mục tiêu bay điều khiển từ xa.
F-104 Starfighter của Lockheed là một tiêm kích tốc độ cao, đẹp và một cái bẫy chết người, giành được biệt danh “quan tài bay” khi có tỷ lệ hơn 30 tai nạn/100.000 giờ bay (nó còn được gọi là “quả tên lửa với một người bên trong”). Không quân Canada đã mất trên 50% F-104 của mình vì tai nạn, còn Không quân Đức là trên 30%. Các máy bay kềnh càng F-105 Thunderchief của hãng Republic thì tỏ ra hiệu quả hơn. Được thiết kế như một máy bay ném bom hạt nhân, nó không hề thích hợp với nhiệm vụ ném bom thông thường bị ép buộc bởi chiến tranh Việt Nam, và trở thành con mồi dễ dàng của các tiêm kích MiG-17 Fresco, MiG-21 Fishbed và tên lửa phòng không SA-2.
Các máy bay của series 100 do các hãng khác nhau sản xuất và được trù định để thực hiện các nhiệm vụ khác nhau. Tuy nhiên, chúng đã được mua sắm với số lượng rất lớn và tất cả đều có các vấn đề liên quan đến cùng một nguyên nhân; đó là sự bất lực của Không quân Mỹ trong việc xây dựng khái niệm chiến tranh bên ngoài lĩnh vực chiến lược.
MiG-23 (5.047)
MiG- 23 được cho là câu trả lời của Liên Xô đối với các tiêm kích cỡ của Mỹ như F-4 và F-111, một tiêm kích cánh cụp cánh xòe mạnh mẽ có thể thực hiện cả vai trò tiến công lẫn đánh chặn. Và MiG-3 Flogger chắc chắn là một tiêm kích mạnh mẽ. Nhưng nó cũng là một con thú bất kham để bay và duy trì. Các phi công của Phi đội Red Eagle của Mỹ có nhiệm vụ đánh giá tính năng của máy bay Xô-viết, đã coi Flogger một thảm họa luôn chực chờ. Năm 1984, Trung tướng Robert M. Bond tử nạn khi bay một chiếc Flogger mà Không quân Hoa Kỳ sử dụng. Là một máy bay khá lớn, Flogger cũng không có nhiều những phẩm chất tốt nhất của các tiêm kích thế hệ trước nó, trong đó có biên dạng quan sát nhỏ.
MiG- 23 ban đầu được dự định trang bị cho không quân các nước khối Hiệp ước Varsava, nhưng các nước này lại thường thích giữ MiG-21 Fishbed của họ hơn. Thật vậy, về mặt xuất khẩu, MiG-23 là mặt hàng giá rẻ nhưng gây lỗ lớn cho ngành công nghiệp động cơ và hỗ trợ kỹ thuật của Liên Xô vì rất khó để duy trì an toàn bay. Do thiết kế, động cơ hết hạn sử dụng rất nhanh, có nghĩa là các khách hàng mua máy bay này một khi không còn quan hệ tốt với Liên Xô cũng nhanh chóng không còn sử dụng được các tiêm kích này.
Thành tích chiến đấu của Flogger, chủ yếu trong không quân Syria, Iraq và Libya là không có gì đặc sắc. Hầu như không có gì đáng ngạc nhiên khi MiG-23 gần như chắc chắn sẽ bị loại bỏ trước loại tiền nhiệm của nó là MiG-21.
F-35 - ứng cử viên sáng giá
Khi nói đến các thành viên tương lai của danh sách những tiêm kích tồi nhất mọi thời đại, sự chú ý tự nhiên rơi vào F-35 Joint Strike Fighter (JSF), loại máy bay mà số lượng sản xuất ra sẽ vượt quá ngưỡng 500 chiếc. Nhưng thật khó để đánh giá giá trị chiến lược của một máy bay mà không xem xét toàn bộ đời phục vụ của nó. Trong một thời gian nữa, chúng ta sẽ không thể biết liệu JSF là một thành viên xứng đáng trong danh sách này hay không. Có điều, F-35 khó có thể có tỷ lệ tai nạn gần gần như các tiêm kích trong danh sách này. Nhưng chi phí khổng lồ của JSF chắc chắn sẽ biến nó thành một ứng cử viên trong tương lai dài hạn cho danh sách này.