PGS.TS Ðỗ Duy Cường, Giám đốc Trung tâm Bệnh Nhiệt đới thăm khám cho bệnh nhân nhiễm nấm đen
Khó khăn chuẩn đoán
PGS.TS Đỗ Duy Cường, Giám đốc Trung tâm Bệnh Nhiệt đới (Bệnh viện Bạch Mai) cho biết, Bệnh viện có hơn 20 trường hợp bị bệnh nấm đen nhập viện điều trị.
Các bệnh nhân nhiễm nấm đen đến chủ yếu từ các khoa Tai mũi họng, Hồi sức tích cực, Thần kinh, Mắt, Nội tiết - Đái tháo đường. Đa số các bệnh nhân này đều có bệnh nền khi nhập viện và trong tình trạng nhiễm trùng nặng, có các tổn thương nhiễm nấm ăn từ xoang lan lên xương hàm, ổ mắt, hệ thần kinh…
Đây là dạng nấm xâm nhập đã được y văn thế giới nhắc đến, đặc biệt là tại Ấn Độ trong giai đoạn vừa qua với số lượng bệnh nhân tăng đột biến, là một trong những nguyên nhân gây tử vong cao sau khi nhiễm COVID -19.
“Nấm đen là một bệnh nhiễm trùng mới nổi nghiêm trọng do bào tử nấm có tên gọi là Mucormycetes gây ra. Nhóm nấm Mucor tạo ra hàng triệu bào tử lơ lửng trong không khí, thường phát triển vào mùa hè và mùa thu. Những bào tử này khi tiếp xúc với bề mặt ẩm ướt, có các chất hữu cơ thối rữa: Lá cây, gỗ mục nát, phân động vật hoặc đất, chúng bắt đầu nảy mầm và tạo ra sợi nấm.
Nấm xâm nhập vào cơ thể chúng ta qua 2 con đường: Hít phải bào tử nấm từ không khí, gây nhiễm trùng phổi, não hoặc xoang và xâm nhập qua da bởi vết cắt, vết xước, vết cào, vết bỏng và một số tổn thương da khác”, PGS. Cường cho biết.
Những nhóm người có nguy cơ cao mắc bệnh là người từng mắc COVID-19; bệnh nhân đái tháo đường type 2, đặc biệt là có tình trạng nhiễm toan ceton; bệnh nhân ung thư, cấy ghép tạng, cấy ghép tế bào, sử dụng Corticosteroid kéo dài; người có tình trạng suy giảm miễn dịch, nhiễm HIV; người bị chấn thương da do phẫu thuật, bỏng; trẻ sinh non, nhẹ cân và suy dinh dưỡng.
Bệnh nhiễm nấm đen có thể ảnh hưởng đến nhiều cơ quan và bộ phận cơ thể. Các triệu chứng phụ thuộc vào tình trạng nhiễm trùng nơi nấm phát triển. Nó có thể dẫn đến mũi bị hoại tử thâm đen hoặc đổi màu, đau mặt, đau vùng xoang lan lên mắt, đau đầu, đau ngực, khó thở và ho ra máu.
Các chuyên gia truyền nhiễm cho biết, việc chẩn đoán còn khó khăn vì triệu chứng lâm sàng đa dạng, phức tạp, bệnh phẩm nuôi cấy khó mọc, cần có các nhà giải phẫu bệnh học có kinh nghiệm để đọc tiêu bản.
Tỉ lệ tử vong cao
PGS.TS Đỗ Duy Cường cho hay: “Hiện nay, Bộ Y tế mới chỉ có hướng dẫn chung cho các bệnh nhân nhiễm nấm, chưa có hướng dẫn dành riêng cho bệnh nhân nhiễm nấm đen. Việc điều trị nấm đen đang sử dụng các thuốc chống nấm truyền tĩnh mạch là Amphotericin B, thời gian giai đoạn tấn công là 2 - 4 tuần. Tuy nhiên, thuốc này có nhiều độc tính và rất đắt tiền, bảo hiểm y tế chỉ chi trả 50%.
Chúng tôi gặp khó khăn nữa trong điều trị là hết giai đoạn tấn công, bệnh nhân khó có thể tìm được thuốc cho giai đoạn duy trì, đó là thuốc Posaconazol hoặc Isavuconazol. Đây là các thuốc khó tìm tại thị trường Việt Nam và rất đắt tiền nên bệnh nhân thường bỏ thuốc, không tuân thủ điều trị. Do đó bệnh dễ bị tái phát trở lại, nấm có thể ăn sâu thêm và tổn thương nặng nề hơn. Đó là nguyên nhân dẫn đến tỉ lệ tử vong cao cho nhóm bệnh này”.
Nấm đen gây ra 5 dạng bệnh cảnh: nhiễm trùng xoang và não; viêm phổi; nhiễm trùng da và niêm mạc; nhiễm trùng đường tiêu hoá; nhiễm nấm đen mucormycosis lan tỏa.
Ông Cường kiến nghị Bộ Y tế sớm đưa ra phác đồ điều trị dành riêng cho loại bệnh này, nhập được thuốc và có chính sách bảo hiểm y tế chi trả cho những bệnh nhân nhiễm nấm đen. “Hiện tại, không có thuốc hay vắc xin chủng ngừa để ngăn chặn bệnh nấm đen. Để phòng bệnh, đặc biệt ở những bệnh nhân có bệnh nền đái tháo đường, ung thư, suy giảm miễn dịch, hậu COVID-19, nên tránh đến khu vực có nhiều khói bụi, công trường.
Đeo khẩu trang hiệu suất lọc trên 95% có than hoạt tính khi phải đến khu vực có nhiều khói bụi; vệ sinh vùng da bị thương bằng nước ấm và dung dịch sát khuẩn để tránh nhiễm trùng da”, PGS. Cường khuyến cáo.
Bác sĩ cũng khuyến cáo bệnh nhân cần điều trị và kiểm soát tốt bệnh nền. Khi có triệu chứng nghi ngờ nhiễm nấm đen cần đến các cơ sở chuyên khoa để khám và phát hiện, điều trị thuốc chống nấm sớm, đúng phác đồ để hạn chế tỉ lệ tử vong.