GS Nguyễn Văn Tuấn (từ Úc): Loãng xương và ví dụ về nhà du hành vũ trụ nằm cáng để khiêng

GS Nguyễn Văn Tuấn (từ Úc) |

Trái lại với nhiều người nghĩ xương là cái gì cố định, xương thật ra là một mô rất năng động, rất đúng với triết lý "vô thường" của Nhà Phật.

Loãng xương là căn bệnh tương đối phổ biến ở phụ nữ mãn kinh và nam giới trên 60 tuổi. Theo nghiên cứu của Giáo sư Nguyễn Văn Tuấn, Giám đốc labo nghiên cứu cơ xương thuộc Đại học Tôn Đức Thắng, Trưởng labo di truyền loãng xương của Viện nghiên cứu y khoa Garvan thuộc Bệnh viện St Vincent's (Úc), thì tại TP HCM, cứ 10 phụ nữ mãn kinh có 3 người bị loãng xương; và cứ 10 nam trên 60 tuổi có 1 người bị loãng xương. 

 Đây là căn bệnh thầm lặng nhưng lại khiến gia tăng nguy cơ gây tử vong.

Còn theo số liệu khảo sát bước đầu của Viện Dinh Dưỡng quốc gia, bệnh loãng xương ảnh hưởng tới 1/3 phụ nữ và 1/8 đàn ông trên 50 tuổi. Ước tính có khoảng 2,5 triệu người bị loãng xương và trên 150.000 trường hợp bị gãy xương do loãng xương.

* Bài 1: Loãng xương: Thầm lặng, nguy hiểm, ở Việt Nam chỉ 1-5% bệnh nhân gãy xương được điều trị!

---------------

Như đề cập ở bài trước, loãng xương là một căn bệnh âm thầm, không có triệu chứng cụ thể. Do đó, các nhà nghiên cứu đã phát triển các công cụ để dự báo gãy xương dựa vào 'hồ sơ nguy cơ' của mỗi cá nhân. Hồ sơ nguy cơ bao gồm các yếu tố như loãng xương (hay mật độ xương), tiền sử gãy xương, tiền sử té ngã, bệnh lý đi kèm, v.v.

Không loãng xương vẫn có thể gãy xương

Cần nói rõ rằng người có mật độ xương thấp (hay loãng xương) không có nghĩa là sẽ bị gãy xương; họ chỉ có nguy cơ gãy xương cao. Nói cách khác, những người có mật độ xương bình thường (tức không bị loãng xương) vẫn có thể bị gãy xương. Trường hợp của bà X đề cập trong phần đầu là một ca khá tiêu biểu: bà không bị loãng xương, nhưng lại bị gãy xương.

Do đó, một cách để nhận dạng các cá nhân có nguy cơ cao là dùng mô hình tiên lượng. Hiện nay, có hai mô hình đang được sử dụng trên toàn thế giới. Mô hình thứ nhất là của Viện nghiên cứu y khoa Garvan (còn gọi là "Nguyen's model"). Mô hình thứ hai là mô hình FRAX do Đại học Sheffield phát triển. 

 Về mặt khoa học, hai mô hình Garvan và FRAX có giá trị tiên lượng gần bằng nhau, nhưng Garvan thì chính xác hơn. Trong một nghiên cứu ở New Zealand, các tác giả trình bày kết quả cho thấy mô hình Garvan tiên lượng gần như 100% các ca gãy xương, nhưng FRAX chỉ nhận dạng được khoảng 50% ca gãy xương.

Nghiên cứu ở Việt Nam của BS Thái Viết Tặng (báo cáo năm ngoái trong hội nghị loãng xương lần thứ 10) cũng cho ra kết quả như ở New Zealand. Mô hình Garvan có vẻ tương đồng với quyết định điều trị hơn mô hình FRAX.

Với hai mô hình này, bác sĩ (và bệnh nhân) chỉ cần nhập vài dữ liệu vào một website và mô hình sẽ cho ra dự báo về nguy cơ gãy xương trong 5 năm hay 10 năm. Bạn đọc có thể truy cập trang web Sức Khỏe Xương (www.suckhoexuong.vn) của Đại học Tôn Đức Thắng và Hội Loãng Xương TP.HCM để dự báo nguy cơ gãy xương.

Phòng ngừa lúc còn trẻ

Đến đây thì có lẽ bạn đọc sẽ hỏi: chăm sóc sức khỏe xương ra sao?

Nguyên lý chính là xây dựng bộ xương cho vững chãi lúc còn trẻ. Lý do là vì xương của chúng ta "tiến hóa" theo từng giai đoạn. Trong độ tuổi thiếu niên (bây giờ người ta gọi bằng cái danh từ hết sức kỳ cục và lai căng là "tuổi teen") mật độ xương tăng rất nhanh, và đạt mức độ cao nhất trong tuổi thanh niên hoặc trung niên (từ 20 đến 30 tuổi). Mật độ xương tương đối bình ổn trong độ tuổi 30 đến 50. Sau độ tuổi 50 (hay sau mãn kinh ở nữ giới) thì xương giảm rất nhanh trong thời gian 2-5 năm sau mãn kinh, và sau đó thì giảm khoảng 0,5% mỗi năm.

Tính trung bình, khi nữ sống đến độ tuổi 60 hay 70, họ đã mất ít nhất 35% xương! Nam cũng mất xương, nhưng ít hơn nữ. Do đó, chúng ta phải cố gắng tối đa hóa mật độ xương lúc tuổi thanh xuân, tức 20-30 tuổi hay trước đó (tức tuổi thiếu niên), để sau này khi bị mất xương thì chúng ta vẫn còn ở mức độ an toàn.

Hai yếu tố quan trọng nhất để tối đa hóa mật độ xương lúc còn trẻ là vận động thể lực và dinh dưỡng. 

Trái lại với nhiều người nghĩ xương là cái gì cố định, xương thật ra là một mô rất năng động. Các tế bào trong xương được tạo ra, chết đi và tái tạo gần như hàng phút đồng hồ (rất đúng với triết lý "vô thường" của Nhà Phật). Khi chúng ta vận động cơ thể thì các tế bào xương cũng vận động nhịp nhàng theo, chúng tạo ra xương mới và làm cho xương chắc và mạnh.

GS Nguyễn Văn Tuấn (từ Úc): Loãng xương và ví dụ về nhà du hành vũ trụ nằm cáng để khiêng - Ảnh 1.

Vận động thể lực tốt cho xương.

Khi các phi hành gia bay vào vũ trụ, chỉ trong vòng 2 tuần, họ có thể mất đến 15%-30% mật độ xương! Khi họ trở về trái đất, họ phải được khiêng, chứ nếu để họ đi thì sẽ bị gãy xương! Lý do là vì trong môi trường thiếu trọng lực, các tế bào trong xương gần như... lười biếng, không "làm việc" và do đó xương bị suy giảm rất nhanh. Tương tự, các bệnh nhân đột quỵ cũng mất rất nhiều xương vì thiếu vận động. Do đó, vận động cơ thể là "liều thuốc" hết sức quan trọng để xây dựng bộ xương chắc và mạnh.

Yếu tố thứ hai là dinh dưỡng. Xương được làm từ nhiều chất, nhưng chủ yếu là calcium, phosphorus, và collagen. Chúng ta hay nghe nói rằng 99% lượng calcium trong cơ thể nằm ở bộ xương (và răng), và điều này đúng, nhưng calcium chỉ chiếm khoảng 60%-65% trong xương. 

Nói ngắn gọn, calcium là thành tố quan trọng nhất của xương. Do đó, phương cách ăn uống phải làm sao đảm bảo đủ calcium. và vitamin D. Tại sao vitamin D? Bởi vì vitamin D là hormone cần thiết để hấp thu calcium (thiếu vitamin D thì cơ thể chúng ta sẽ thải calcium qua đường nước tiểu và mồ hôi). Do đó, chúng ta cần caclium và vitamin D. Mỗi ngày, cơ thể chúng ta cần khoảng 1.000 mg calcium.

GS Nguyễn Văn Tuấn (từ Úc): Loãng xương và ví dụ về nhà du hành vũ trụ nằm cáng để khiêng - Ảnh 2.

Thực phẩm giàu calcium.

Vậy câu hỏi đặt ra là thức ăn nào giàu chất calcium? Câu trả lời đơn giản (nhưng khó cho người Việt chúng ta) là sữa. Sữa là nguồn calcium lớn nhất. Sữa ở đây cũng bao gồm da-ua (yogurt), cheese (phô mai), hay nói chung là các sản phẩm làm từ sữa bò. Ngoài ra, còn có rau xanh như rau dền, cải rổ, đậu phộng, v.v. cũng có nhiều calcium. Cá chạch, cá tuyết, cá mòi, cá hồi cũng hàm chứa nhiều calcium.

Để có đủ vitamin D, nguồn tốt nhất là... mặt trời. Mỗi ngày chỉ cần phơi nắng khoảng 10 phút vào buổi sáng (không phải buổi chiều) là cơ thể có thể hấp thu đủ vitamin D. Các chuyên gia khuyến cáo rằng chúng ta cần khoảng 600 IU (IU là đơn vị quốc tế) vitamin D mỗi ngày.

Đối với đàn ông Việt Nam, một yếu tố quan trọng có ảnh hưởng đến sức khỏe xương là hút thuốc lá. Thuốc lá là thủ phạm của rất nhiều bệnh như tim mạch, tiểu đường, ung thư, nhưng nó cũng chính là thủ phạm nguy hiểm cho xương. 

Để ý thấy những người hút thuốc lá thường ốm tong teo, vì xương của họ cũng "ốm" như vậy. Mật độ xương của người hút thuốc lá thấp hơn người không hút thuốc lá khoảng 15%-20%. Do đó, nếu còn trẻ và nếu đang "ngó trên tay điếu thuốc đã lụi dần" thì tôi khuyên các bạn là cho nó lụi luôn, chứ đừng thi vị hóa thuốc lá nữa.

Duy trì luyện tập thể dục, ăn uống đủ dinh dưỡng chất calcium và vitamin D, và bỏ hút thuốc lá là những lựa chọn hữu hiệu nhất để phòng ngừa loãng xương ở mọi độ tuổi. Những biện pháp này nằm trong tầm tay của chúng ta, chứ không cần đến thuốc. Không nên và không bao giờ ỷ lại vào thuốc để xây dựng bộ xương chúng ta. 

Thật ra, một số thuốc (như corticosteroid chẳng hạn) rất có hại cho xương. Do đó, cần phải hiểu rõ hay tìm hiểu để biết thuốc nào có hại và thuốc nào không gây tác hại cho xương, chứ không nên dùng thuốc một cách bừa bãi.

Làm sao biết bị loãng xương?

Cách hay nhất là đo mật độ xương bằng máy DXA. Ở Việt Nam một số bệnh viện lớn và bệnh viện cấp tỉnh cũng đã có máy DXA. Vị trí đo là xương cột sống và xương đùi. Phương pháp DXA dùng hai tia năng lượng scan các vị trí xương vừa kể và dựa vào nguyên lí vật lý, máy có thể tính toán chính xác mật độ xương của một cá nhân. 

Mật độ xương, như tên gọi, được tính bằng đơn vị gram trên mỗi cm2. Bởi vì mật độ xương thay đổi theo độ tuổi, nên người ta phải chuẩn hóa bằng cách so sánh với mật độ xương ở tuổi "thanh xuân" (20-30), và kết quả là chỉ số T (hay T-score).

GS Nguyễn Văn Tuấn (từ Úc): Loãng xương và ví dụ về nhà du hành vũ trụ nằm cáng để khiêng - Ảnh 3.

Chẩn đoán loãng xương là dựa vào chỉ số T. Một cá nhân có chỉ số T bằng -2 thì kết quả này có nghĩa là mật độ xương của cá nhân đó giảm 2 độ lệch chuẩn so với mật độ xương lúc tuổi thanh xuân. Khi chỉ số T giảm thấp hơn hay bằng -2.5 thì cá nhân đó được chẩn đoán là "loãng xương" (osteoporosis).

Nguyên lý thì đơn giản, nhưng đòi hỏi người bác sĩ phải biết đọc DXA scan và quan trọng hơn là người radiographer phải biết đo mật độ xương (có nhiều người chưa qua huấn luyện nên đo sai quy trình).

Nhưng ở Việt Nam còn nảy sinh một vấn đề khác về chẩn đoán. Như trình bày trên, chẩn đoán loãng xương dựa vào chỉ số T, mà chỉ số T dựa vào giá trị tham chiếu ở độ tuổi 20-30. Nhiều máy DXA ở Việt Nam dùng giá trị tham chiếu của người Mỹ hay Âu châu (và họ có mật độ xương cao hơn người Việt), do đó rất nhiều người Việt bị chẩn đóan loãng xương dù trong thực tế họ không bị! Cần phải tham vấn bác sĩ có kinh nghiệm để có chẩn đoán chính xác.

Vấn đề siêu âm để phát hiện loãng xương

Ở Việt Nam, có một số nơi (bệnh viện công và cả các trung tâm y tế tư nhân) cung cấp dịch vụ chẩn đoán loãng xương bằng máy siêu âm. Máy siêu âm đo tốc độ âm thanh xuyên qua xương (gọi là SOS – speed of sound) hay các chỉ số tính toán từ SOS, và thậm chí ước tính cả mật độ xương. Sự phát triển máy siêu âm là một tiến bộ đáng kể trong chuyên ngành xương.

Tuy nhiên, không thể dùng máy siêu âm để chẩn đoán loãng xương. Cho đến nay, máy siêu âm chủ yếu dùng trong nghiên cứu khoa học là chính. Nhiều nghiên cứu, kể cả nghiên cứu của chúng tôi, chỉ ra rằng SOS có mối tương quan đến mật độ xương đo bằng máy DXA, nhưng hệ số tương quan chỉ khoảng 0.5 đến 0.6, tức là chưa đủ "mạnh" để thay thế máy DXA. 

GS Nguyễn Văn Tuấn (từ Úc): Loãng xương và ví dụ về nhà du hành vũ trụ nằm cáng để khiêng - Ảnh 4.

Tuy nhiên, không thể dùng máy siêu âm để chẩn đoán loãng xương.

Trong thực tế thì một số người có SOS thấp cũng có thể là loãng xương, nhưng đó chỉ là một số nhỏ. Do đó, các chuyên gia trong ngành không khuyến cáo dùng siêu âm cho chẩn đoán loãng xương. Dùng máy siêu âm để định bệnh loãng xương và dùng thuốc là sai qui trình và không đúng với qui định trong chuyên ngành loãng xương.

Tóm lại, loãng xương là một căn bệnh phổ biến trong cộng đồng và thường dẫn đến gãy xương. Gãy xương là một biến cố rất quan trọng vì làm giảm tuổi thọ (tăng nguy cơ tử vong). Khoảng 1/5 bệnh nhân gãy xương hông bị tử vong. Nguy cơ tử vong tăng rất cao trong năm đầu sau gãy xương. Hiện nay, có một số thuốc có thể giảm nguy cơ gãy xương và giảm nguy cơ gãy xương. Tuy nhiên, rất nhiều bệnh nhân gãy xương lại không được điều trị, và đây là một tình trạng khủng hoảng trong chuyên ngành. Khủng hoảng này làm giảm tuổi thọ của dân số Việt Nam.

Gãy xương có thể xảy ra ở người không bị loãng xương, như trường hợp của bà X trong phần đầu. Để biết nguy cơ gãy xương, cần phải xem xét đến nhiều yếu tố khác như té ngã và tiền sử gãy xương. Các phụ nữ mãn kinh và nam giới trên 60 tuổi có thể dùng công cụ như Garvan và FRAX để dự báo nguy cơ gãy xương trong 5 năm tới (website là www.suckhoexuong.vn).

Phòng ngừa loãng xương vẫn là 'thượng sách', và phòng ngừa có thể bắt đầu từ lúc còn trẻ chứ không đợi đến lúc cao tuổi. Duy trì bữa ăn đầy đủ calcium, đầy đủ vitamin D, luyện tập thể dục thường xuyên, và ngưng hút thuốc lá là những biện pháp nằm trong tầm tay của mỗi cá nhân để giảm nguy cơ loãng xương.

Giáo sư Nguyễn Văn Tuấn là Giáo sư xuất sắc và Giám đốc labo nghiên cứu cơ xương thuộc Đại học Tôn Đức Thắng, Giáo sư thỉnh giảng của Đại học Y Hà Nội, và Giáo sư danh dự của Đại học Dược Hà Nội.

Ở Úc, ông là Senior Principal Fellow (chức danh cao nhất trong hệ thống khoa học Úc) và trưởng labo di truyền loãng xương của Viện nghiên cứu y khoa Garvan, Giáo sư Trường Y, Đại học New South Wales (UNSW Sydney) và Giáo sư Y khoa Tiên lượng (Predictive Medicine) thuộc Đại học Công nghệ Sydney (UTS). Ông đã công bố hơn 300 công trình nghiên cứu trên các tập san nổi tiếng trên thế giới, kể cả Nature, Science, JAMA, BMJ, Lancet, và New England Journal of Medicine.

Giáo sư Nguyễn Văn Tuấn là một trong những nhà nghiên cứu y khoa được trích dẫn nhiều nhất trên thế giới. Ông được trao nhiều giải thưởng ở nước ngoài và trong nước về những thành tích khoa học và giáo dục. Năm 2018, ông được bầu làm Fellow của American Society for Bone and Mineral Research (Hiệp hội nghiên cứu xương Hoa Kỳ).

* Tiêu đề bài viết do tòa soạn đặt.

Đường dây nóng: 0943 113 999

Soha
Báo lỗi cho Soha

*Vui lòng nhập đủ thông tin email hoặc số điện thoại