Chủ tịch Hồ Chí Minh với trận "Điện Biên Phủ" trên bầu trời Hà Nội

Đại tá Nguyễn Huy Toàn |

Năm 1963, đồng chí Phùng Thế Tài được bổ nhiệm làm Tư lệnh bộ đội Phòng không - Không quân, đây là một quân chủng mới gồm có 3 binh chủng: Cao xạ có 11 trung đoàn; Radar có 3 trung đoàn và Không quân có 3 trung đoàn, trong đó có một trung đoàn không quân tiêm kích được trang bị máy bay MiG-17A đang học tập ở nước ngoài (1).

Sau khi nhận nhiệm vụ mới, đồng chí Phùng Thế Tài được gặp Chủ tịch Hồ Chí Minh. Trong buổi tiếp xúc ấy, Người đã hỏi đồng chí Phùng Thế Tài:

- "Chú đã biết gì về B52 chưa? Thấy đồng chí Tài lúng túng, Bác cười độ lượng rồi nói:

- Nói thế thôi chứ chú có biết cũng chưa làm gì được nó. Nó bay cao trên 10 cây số mà trong tay chú hiện nay mới chỉ có cao xạ thôi. Nhưng ngay từ bây giờ, là tư lệnh bộ đội phòng không chú phải theo dõi chặt chẽ và thường xuyên quan tâm đến loại máy bay này".

Cuối cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, quân đội ta mới có ít các đơn vị cao xạ, nhưng đã bắn hạ được một số máy bay địch trong chiến dịch Điện Biên Phủ.

Sau khi miền Bắc được giải phóng, tháng 3 năm 1957, Ban chấp hành Trung ương Đảng đã ra nghị quyết 12 về xây dựng quân đội, củng cố quốc phòng và xác định phương châm xây dựng quân đội ta: "Tích cực xây dựng một quân đội nhân dân hùng mạnh, tiến dần từng bước lên chính quy và hiện đại hoá".

Để đào tạo đội ngũ cán bộ, ngoài việc xây dựng hệ thống các trường quân sự ở trong nước, từ năm 1955 đến 1964, chấp hành chỉ thị của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Bộ Quốc phòng đã cử hơn 4.000 người đi học ở nước ngoài.

Ngày 21-3-1958, Bộ Quốc phòng quyết định thành lập Bộ Tư lệnh Phòng không, lúc đó mới có 6 trung đoàn cao xạ.

Tháng 8 năm 1958, Trung đoàn 4 thuộc Bộ Tư lệnh Phòng không được tổ chức thành Trung đoàn tình báo phòng không mang phiên hiệu 260, gồm có 6 đại đội trang bị Radar P-8, 3 đại đội quan sát bằng mắt, đây là trung đoàn Radar đầu tiên.

Ngày 1 tháng 3 năm 1959, các đài Radar của trung đoàn này đã phát sóng trên toàn mạng ở Điện Biên Phủ (Lai Châu), Đồ Sơn (Hải Phòng), Tùng Quang (Nam Định), Quảng Xương (Thanh Hoá), Điền Lư (Nam Quân khu 4).

Ngày 3 tháng 2 năm 1964, Quân đội ta thành lập trung đoàn Không quân tiêm kích đầu tiên mang phiên hiệu 921, lúc này ta mới có 160 phi công và 36 máy bay phản lực (trong đó có 32 chiếc MiG-17, và 4 chiếc MiG-15). Sau đó hơn 1 năm, trung đoàn không quân tiêm kích thứ hai 923 được thành lập.

Ngày 7 tháng 1 năm 1965, Trung đoàn tên lửa SAM-2 đầu tiên mang phiên hiệu 236 được thành lập. Chỉ 6 tháng sau, vào ngày 24-7, hai tiểu đoàn 63 và 64 của trung đoàn này đã đánh thắng trận đầu, bắn rơi chiếc máy bay F-4C của Không quân Mỹ tại Suối Hai.

Chủ tịch Hồ Chí Minh với trận Điện Biên Phủ trên bầu trời Hà Nội - Ảnh 1.

Tên lửa SAM-2 sẵn sàng chiến đấu

Chủ tịch Hồ Chí Minh, các đồng chí Lê Duẩn, Võ Nguyên Giáp và các đồng chí lãnh đạo khác của Đảng, Nhà nước và Quân đội đã rất quan tâm đến sự kiện này, bởi vì tên lửa SAM-2 là một trong những đối thủ đáng gờm của B-52.

Ngày 19-7-1965, Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng với một số đồng chí lãnh đạo cấp cao đã đến thăm đoàn Xung Kích và đại đội 1 đoàn Tam Đảo phòng không đang chuẩn bị đi chiến đấu bảo vệ tên lửa ra quân trận đầu, tại đây.

Người căn dặn: "Phải làm sao đánh tiêu diệt được chúng. Vừa qua súng của ta không phải ít, nhưng chưa đánh tiêu diệt được... Không phải ta thiếu cảnh giác. Vấn đề là ở chỗ tinh thần của con người phải truyền qua súng, tức là làm sao phải có kỹ thuật giỏi... Bộ đội Phòng không - Không quân có nhiều binh chủng hợp thành, lúc đánh phải hiệp đồng cho tốt...

Phải tin tưởng vững chắc là ta nhất định thắng, Mỹ nhất định thua... Phải khẳng định rằng: Dù đế quốc Mỹ có lắm súng, nhiều tiền. Dù chúng có B57, B52 hay "B" gì đi nữa, ta cũng đánh, từng ấy B52, từng ấy quân Mỹ chứ nhiều hơn nữa ta cũng đánh, mà đã đánh là nhất định thắng" (2).

Ngày 18-6-1965, sư đoàn không quân, thuộc Bộ tư lệnh Không quân chiến lược Mỹ đã tổ chức cho 30 máy bay B-52 từ đảo Guam vượt chặng đường 8.850 kilômét để đến ném bom rải thảm ở khu Bến Cát, tây bắc Sài Gòn. Từ trận đánh đầu tiên đó, máy bay B52 ngày càng hoạt động mạnh theo nhịp độ phát triển của cuộc chiến tranh.

Ngày 12-4-1966, đế quốc Mỹ lần đầu tiên đưa máy bay B-52 ra đánh miền Bắc, chúng đánh hủy diệt đèo Mụ Giạ. Sau trận đó, Mỹ thường xuyên cho B-52 ra đánh phá khu vực Vĩnh Linh, gây nhiều tội ác với đồng bào ta.

Bác Hồ thường xuyên theo dõi tin tức về các trận B52 ra miền Bắc. Người đã nhiều lần gọi đồng chí Phùng Thế Tài lên để hỏi về thiệt hại của ta do B52 của địch gây ra và việc phòng tránh của nhân dân. Đồng chí Phùng Thế Tài kể lại:

"Có lần Bác hỏi tôi:

B-52 nó ra miền Bắc rồi đấy, chú nghĩ sao?

Hầu như không suy nghĩ, tôi đáp ngay:

Thưa Bác đề nghị Bác cho chúng tôi đưa tên lửa vào quất cho chúng nó một trận.

... Tôi thấy Bác trầm ngâm suy nghĩ một lúc rồi thong thả nói:

Đúng - Muốn bắt cọp thì phải vào tận hang, chú cứ về suy nghĩ thêm đi và tranh thủ trao đổi với các đồng chí xung quanh (3).

Chấp hành chỉ thị của Bác, tháng 4 năm 1966 Bộ Tư lệnh Phòng không - Không quân giao nhiệm vụ cho trung đoàn 238, trung đoàn tên lửa thứ hai của quân đội ta vào Vĩnh Linh.

Để đưa được vũ khí, khí tài vào tuyến lửa thật là khó khăn, cả 4 tiểu đoàn tên lửa của ta đều bị địch đánh quyết liệt, các tiểu đoàn 83, 84 gần như mất sức chiến đấu, vũ khí, khí tài bị hỏng, lại trở ra nhận vũ khí mới tiếp tục vào xây dựng trận địa, tổ chức nghi binh, giấu quân, kiên trì luyện tập và mai phục, quyết tâm hạ bằng được máy bay B52 của địch.

Ngày 19-5-1967 đồng chí Tư lệnh Phòng không - Không quân lên chúc thọ Bác và báo tin chiến thắng của quân và dân Hà Nội - bắn rơi 10 máy bay Mỹ, có một chiếc rơi ngay trên đường phố Lê Trực. Bác rất vui, Người khen ngợi quân và dân Hà Nội. Tiếp đó Bác hỏi đồng chí Phùng Thế Tài:

Thế còn B-52 đâu?

Điều khổ tâm lớn nhất lúc này của cán bộ, chiến sĩ Quân chủng Phòng không - Không quân là chưa hạ được B-52 để báo cáo với Bác.

Các đơn vị tên lửa của ta vào Vĩnh Linh từ tháng 4 năm 1966, mãi hơn 1 năm sau, vào ngày 17-9-1967, lúc 17 giờ 3 phút, tiểu đoàn 84, trung đoàn 238 do đồng chí Nguyễn Đình Phiên chỉ huy đã bắn rơi chiếc B52 đầu tiên. Tin vui này được đồng chí Tư lệnh quân chủng báo cáo ngay lên Bác.

Ngày 20-9-1967, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký sắc lệnh thưởng Huân chương Quân công hạng nhì cho Tiểu đoàn 84 (4) và gửi thư khen đồng bào và chiến sĩ Khu IV lần dầu tiên bắn rơi máy bay B-52 của Mỹ trên miền Bắc. Tối hôm đó, đồng chí Tư lệnh Phòng không - Không quân được Bác gọi lên báo cáo.

Đồng chí Phùng Thế Tài kể lại:

"Ngay phút đầu tiên Bác đã hỏi về B-52, nét mặt Bác trở nên trầm ngâm:

Sớm muộn rồi đế quốc Mỹ cũng sẽ đưa B-52 ra đánh Hà Nội rồi có thua nó mới chịu thua.

Bác dạy: - Phải dự kiến trước hết mọi tình huống càng sớm càng tốt, để có thời gian mà suy nghĩ, mà chuẩn bị.

Cuối cùng, cũng với vẻ mặt trầm ngâm Bác nói thêm:

Chú nhớ là trước khi thua ở Triều Tiên, Mỹ đã huỷ diệt Bình Nhưỡng. Ở Việt Nam, Mỹ sẽ nhất định thua (Bác nhìn ra cửa sổ, chỉ tay lên bầu trời nói tiếp):

Nhưng nó chỉ chịu thua sau khi thua trên bầu trời Hà Nội" (5).

Thực hiện lời dạy của Bác, Quân uỷ Trung ương và Bộ Quốc phòng đã nhanh chóng xây dựng lực lượng. Bước vào năm 1968 lực lượng Phòng không của ta đã có 11 trung đoàn tên lửa, 2 trung đoàn Không quân tiêm kích trang bị máy bay MiG-17 và MiG-21.

Ngày 20-11-1971 phi công Vũ Đình Rạng thuộc trung đoàn 921 đã lái MiG-21, cất cánh từ sân bay dã chiến ở Anh Sơn, Nghệ An, bắn bị thương một máy bay B-52.

Ngày 19-4-1972, phi công Lê Văn Dị và Nguyễn Văn Bảy thuộc trung đoàn 923 đã lái máy bay MiG-17, cất cánh từ sân bay Gát (Đồng Hới) đánh bị thương tàu khu trục của Hạm đội 7 Mỹ, khi chúng xâm phạm vùng biển miền Bắc nước ta.

Đến giữa năm 1972, dân quân, tự vệ miền Bắc đã có hàng chục đại đội được trang bị pháo cao xạ, 170 đại đội trung đội được trang bị súng máy cao xạ, 20 đại đội trang bị pháo 85 ly để đánh tàu chiến của địch ở ven biển.

Có thể nói lưới lửa phòng không của ta ở miền Bắc là rất mạnh; tầng thấp thì có hàng ngàn trận địa của các lực lượng vũ trang địa phương, tầng trung thì có nhiều sư đoàn cao xạ được trang bị khá mạnh; tầng cao thì có 14 trung đoàn tên lửa và 2 trung đoàn không quân tiêm kích, từng hạ được nhiều máy bay các loại của Mỹ (6).

Chủ tịch Hồ Chí Minh với trận Điện Biên Phủ trên bầu trời Hà Nội - Ảnh 2.

Bộ đội Tên lửa quyết tâm chiến đấu.

Thấm nhuần lời dạy của Chủ tịch Hổ Chí Minh: "Sớm muộn rồi đế quốc Mỹ cũng sẽ đưa B52 ra đánh Hà Nội rồi có thua nó mới chịu thua", trước những diễn biến của tình hình đấu tranh quân sự trên chiến trường và đấu tranh ngoại giao tại Hội nghị Paris, tháng 7 năm 1972, Đại tướng Võ Nguyên Giáp, uỷ viên Bộ Chính trị, Bí thư Quân uỷ Trung ương, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng trực tiếp làm việc với Bộ Tư lệnh Phòng không - Không quân, Tư lệnh các binh chủng Radar, Tên lửa, Không quân, sư đoàn trưởng sư đoàn phòng không Hà Nội để xác định phương án tác chiến chiến dịch phòng không đánh B-52 bảo vệ Hà Nội.

Tháng 9 năm 1972, Bộ Tổng tham mưu và Bộ Tư lệnh Quân chủng Phòng không - Không quân làm xong kế hoạch chiến dịch gồm một số vấn đề cơ bản như: Phán đoán âm mưu, thủ đoạn, hướng và mục tiêu tấn công của địch; quyết định sử dụng lực lượng và cách đánh của ta.

Tiếp sau đó Quân chủng tổ chức Hội nghị, các trắc thủ Radar toàn quân, tập trung nắm những đặc điểm của nhiễu B-52, khả năng phát hiện của từng loại Radar, xây dựng quy trình bắt B-52 trong nhiễu. Sau Hội nghị này vào đầu tháng 11-1972, Quân chủng tiếp tục tổ chức "Hội nghị bàn cách đánh B-52" của Bộ đội Tên lửa.

Có thể khẳng định rằng, việc chuẩn bị cho chiến dịch Phòng không đã được hoàn tất rất chu đáo từ cấp chiến dịch, chiến thuật đến từng người lính Pháo binh, Radar, Tên lửa, Phi công và lực lượng dân quân tự vệ.

Song song với công tác chuẩn bị tác chiến, Đảng bộ Hà Nội đã lãnh đạo tổ chức đưa được 80 đến 90% số người cần sơ tán ra khỏi những nơi địch uy hiếp. Riêng trong chiến dịch đánh B-52, Hà Nội đã huy động 182 xe ca, 54 xe tải liên tục vận chuyển nhân dân không thu vé, đưa gần 30 vạn người ra khỏi thành phố.

Cùng với các phương tiện do nhân dân tự túc đã đưa 50/65 vạn dân Hà Nội về nơi sơ tán an toàn.

Chủ tịch Hồ Chí Minh với trận Điện Biên Phủ trên bầu trời Hà Nội - Ảnh 3.

B-52 Mỹ rải thảm trúng vào Bệnh viện Bạch Mai gây nhiều đau thương, mất mát.

Ngày 17 tháng 10, Tổng thống Mỹ Nicxơn gửi điện cho Thủ tướng Phạm Văn Đồng nói rằng: "Hiệp định hiện nay đã coi như hoàn chỉnh. Có thể tin ở chúng tôi là sẽ ký kết được vào ngày 31-10", thế nhưng sau khi Kit-xing-gơ đi gặp Tổng thống Việt Nam Cộng hoà Nguyễn Văn Thiệu, chính quyền Nicxon đã lật lọng.

Ngày 26-10, Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ cộng hoà đã chủ động công bố nội dung Hiệp định Hoà bình, các điều khoản chung và lịch ký kết ngày 31-10, đồng thời khẳng định rằng phía Mỹ âm mưu duy trì chế độ Sài Gòn và kéo dài chiến tranh.

Ngày 14-12-1972, Nicxơn ra lệnh "Tiếp tục thả mìn cảng Hải Phòng và tiến công bằng B-52 vào khu Hà Nội, Hải Phòng, ba ngày sau lệnh sẽ có hiệu lực".

Trước những diễn biến sôi động và phức tạp của tình hình trên chiến trường và trên bàn hội nghị Pari. Ngay từ ngày 25-11-1972 Quân uỷ Trung ương đã ra "Chỉ thị tăng cường sẵn sàng chiến đấu", đề phòng địch có thể ném bom bắn phá từ vĩ tuyến 20 trở ra.

Đặc biệt là chúng có thể liều lĩnh dùng B-52 đánh phá Hà Nội, Hải Phòng và những trọng điểm khác trên miền Bắc.

Ngày 17-12, Bộ Tổng tư lệnh ra lệnh cho Bộ đội Phòng không - Không quân chuyển trạng thái sẵn sàng chiến đấu cao nhất, đề phòng máy bay B-52 đánh đêm từ vĩ tuyến 20 trở ra.

Đêm 18-12, đế quốc Mỹ cho 90 lần chiếc B-52, 163 lần chiếc máy bay chiến thuật ầm ầm xé nát bầu trời bay vào Hà Nội, mở đầu cho chiến dịch Linebacker II, chúng cho rằng "Hà Nội sẽ bị bất ngờ! Hà Nội sẽ không chịu nổi sức mạnh của một Hirôsima không có bom nguyên tử".

Chủ tịch Hồ Chí Minh với trận Điện Biên Phủ trên bầu trời Hà Nội - Ảnh 4.

Xác máy bay B-52 bị Bộ đội Tên lửa bắn rơi tại chỗ xuống hồ Hữu Tiệp.

Bởi chúng tin rằng kỹ thuật gây nhiễu của chúng sẽ làm mờ mắt các trắc thủ radar của ta, nỗi đe doạ đối với chúng chỉ là hơn 100 máy bay MiG, nhưng trước đó 30 phút, máy bay F-111 - loại máy bay hiện đại và đắt tiền nhất của Mỹ đã tập kích quyết liệt xuống hầu hết các sân bay của ta.

Nhưng Hà Nội, Hải Phòng đã xây dựng thế trận vững chắc, chủ động và sẵn sàng nghênh chiến! Chúng không thể ngờ rằng trước đây hơn 5 năm, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dự báo tình huống này, và suốt 5 năm ấy, quân và dân ta đã âm thầm chuẩn bị cho trận đánh cuối cùng này.

Chiến dịch Linebacker của Mỹ kéo dài từ 18 đến 29-12-1972, chúng đã huy động 835 lần chiếc B52, hơn 1.400 lần chiếc máy bay chiến thuật, có gần 100 lần chiếc máy bay F-111 để đánh phá Hà Nội, Hải Phòng và một số nơi trên miền Bắc.

Quân và dân ta đã bắn rơi 81 máy bay Mỹ, trong đó có 34 máy bay B-52, 5 máy bay F-111, làm nên một trận "Điện Biên Phủ" trên bầu trời Hà Nội.

Nếu trận Điện Biên Phủ năm 1954 đã chấm dứt ách đô hộ của thực dân Pháp trên đất nước ta hơn 80 năm, mở đầu thời kỳ chôn vùi vĩnh viễn chủ nghĩa thực dân của Pháp trên phạm vi toàn thế giới, thì trận "Điện Biên Phủ trên bầu trời Hà Nội" năm 1972 đã góp phần buộc Mỹ phải ký kết Hiệp định chấm dứt chiến tranh, lập lại hoà bình ở Việt Nam và phải cuốn cờ rút hết quân Mỹ và quân đồng minh ra khỏi nước ta.

Vậy là sau 117 năm nước ta không còn bóng một tên xâm lược.

Trận Điện Biên Phủ năm 1954, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dự báo nó qua truyện ký "Giấc ngủ 10 năm" từ năm 1949 còn trận "Điện Biên Phủ" năm 1972, Người đã trực tiếp nói với đồng chí Tư lệnh Phòng không - Không quân Phùng Thế Tài trước 5 năm để mà suy nghĩ mà chuẩn bị. 5 năm chuẩn bị cho một trận đánh cuối cùng ngay trên bầu trời Hà Nội ngàn năm văn hiến của chúng ta.

(1) Xem Hổi ký Phùng Thế Tài và 55 năm Quân đội nhân dân Việt Nam, Nxb quân đội nhân dân, 1999, tr.219.

(2) Hổ Chí Minh tuyển tập, tập II, Nxb Sự thật, H, 1980, tr.370-372.

(3) Trích Hổi ký của Phùng Thế Tài, xem Tạp chí LSQS số 24, tháng 12/1987.

(4) Sắc lệnh số 100/LCT ngày 20-9-1967.

(5) Xem Đặc san Điện Biên Phủ trên không của Tạp chí Lịch sử quân sự - Báo Phòng không, Báo Không quân, tháng 11-1987.

(6) Tính từ 5-8-1964 đến 1-11-1968 (Khi Giôn-xơn buộc phải tuyên bố chấm dứt không điều kiện việc ném bom và bắn phá trên toàn lãnh thổ nước Việt Nam DCCH), quân và dân ta đã bắn rơi 3243 máy bay Mỹ (có 6 B52).

Đường dây nóng: 0943 113 999

Soha
Báo lỗi cho Soha

*Vui lòng nhập đủ thông tin email hoặc số điện thoại