Nữ bệnh nhân đã qua cơn nguy kịch sau khi uống 60 viên thuốc hạ huyết áp Amlodipin
Bệnh nhân nhập viện với biểu hiện mệt nhiều, da lạnh, huyết áp tụt sâu. Các xét nghiệm cận lâm sàng cho thấy khí máu toan chuyển hóa, tăng lactat. Trước đó, bệnh nhân đã uống 60 viên thuốc amlodipin 5mg.
Các bác sĩ đã nhanh chóng thực hiện các biện pháp hồi sức tích cực như thải độc, truyền dịch, thuốc vận mạch, insulin liều cao, truyền canxi…để cứu bệnh nhân thoát khỏi nguy kịch. Sau 10 ngày điều trị, bệnh nhân đã phục hồi sức khỏe và được xuất viện.
Bác sĩ CKI. Nguyễn Ngọc Tuyền - Khoa Hồi sức tích cực và chống độc, Bệnh viện Bãi Cháy cho biết: “Amlodipin là thuốc được kê đơn khá thường xuyên trong điều trị bệnh lý tăng huyết áp. Tuy nhiên khi sử dụng quá liều sẽ có tác dụng phụ như nhức đầu, chóng mặt, mệt mỏi, đánh trống ngực, chuột rút… Trường hợp bệnh nhân này cùng thời điểm sử dụng một lượng lớn thuốc amlodipin (tổng liều lượng 300mg) khiến cơ thể bị nhiễm độc nặng nề, gây suy tuần hoàn nặng và nguy cơ tử vong cao.
Rất may mắn cho bên nhân này khi được điều trị kịp thời và đáp ứng khá tốt với phác đồ điều trị. Nhiều trường hợp mặc dù đã được điều trị hỗ trợ bằng các kỹ thuật hiện đại nhất như tim phổi nhân tạo vẫn không thể qua khỏi’’.
Theo BS CKII. Lê Thị Diệu Hồng, Bệnh viện TƯQĐ 108, tăng huyết áp là một trong những nguy cơ hàng đầu góp phần vào tử vong trên toàn cầu. Tăng huyết áp là kẻ giết người thầm lặng và có rất nhiều nguy cơ gây biến cố nghiêm trọng về tim mạch cho người bệnh.
Trên thế giới, tỉ lệ tăng huyết áp lên đến gần 20% (theo Tổ chức y tế thế giới). Tại Mỹ, theo những phân tích mới nhất được công bố bởi CDC (Centers for Disease Control and Prevention) tỉ lệ tăng huyết áp lên tới gần 30%. Cả nước Mỹ có khoảng ¼ dân số bị tăng huyết áp (khoảng 58,4 triệu người).Tỷ lệ tăng huyết áp tại nước Mỹ tăng dần theo tuổi, nghĩa là khoảng một nửa dân số Mỹ > 60 tuổi bị tăng huyết áp.
Còn tại Việt Nam, tần suất mắc tăng huyết áp càng gia tăng khi nền kinh tế phát triển hơn, nếu không có các biện pháp dự phòng hữu hiệu thì đến 2025 sẽ có gần 10 triệu người bị tăng huyết áp. Thực trạng hiểu biết và kiểm soát huyết áp tại Việt Nam cũng rất đáng quan tâm khi mà chỉ có 23% là biết đúng các nguy cơ của bệnh tăng huyết áp (số liệu năm 2002 của GS.TS. Phạm Gia Khải và cộng sự). Trong khi đó, chỉ có khoảng 34% số người mắc tăng huyết áp được điều trị và trong số đó tỷ lệ kiểm soát được huyết áp chỉ là 11%.
Đáng lưu ý, có đến 90 – 95% tăng huyết áp vô căn gọi là tăng huyết áp nguyên phát và được định nghĩa là mức tăng huyết áp cao mà các nguyên nhân thứ phát rõ ràng không được xác định. Còn lại là tăng huyết áp thứ phát khi có những nguyên nhân rõ ràng (tim, thận…).
Tăng huyết áp do bệnh mạch thận, dù chỉ chiếm 2-3% số người bị tăng huyết áp nhưng cũng là một trong những nguyên nhân hay gặp nhất của tăng huyết áp thứ phát. Phần lớn tăng huyết áp do bệnh mạch thận là do liên quan trực tiếp tới giảm tưới máu thận, hậu quả của hẹp động mạch thận, hoặc một trong những nhánh của chúng….Hay tăng huyết áp do vỏ thượng thận, sự thay đổi trong tiết aldosteron hay hội chứng Cushing, hội chứng Corn,… Ngoài ra còn có sự thay đổi của hệ thần kinh thể dịch do sự hoạt hóa không phù hợp hệ thống các hormon chống bài niệu làm rối loạn chức năng bài natri niệu do tăng huyết áp và dẫn đến tăng huyết áp mạn tính.
BS CKII. Lê Thị Diệu Hồng nhấn mạnh, khi huyết áp cao thường rất ít triệu chứng, có thể có như là nhức đầu, hồi hộp, dễ mệt, đau ngực, khó thở… Có rất nhiều trường hợp bị tăng huyết áp nhưng không biết vì không có biểu hiện khác thường.
Theo đó, bệnh tăng huyết áp nghèo nàn về triệu chứng nhưng lại có rất nhiều biến chứng nghiêm trọng cho bệnh nhân và để lại hậu quả nặng nề cho gia đình và xã hội. Bệnh có rất nhiều biến chứng như: cơn đau thắt ngực, nhũn não, xuất huyết não, suy thận, tăng áp động mạch võng mạc, rối loạn tiền đình, mù lòa….
Khi bệnh nhân không được điều trị đúng cách sẽ rất nguy hiểm và nguy cơ biến chứng nặng tăng lên rất nhiều. Vậy mục tiêu khi điều trị tăng huyết áp cho bênh nhân là gì? Đó chính là điều trị nguyên nhân thứ phát (nếu có), nếu không điều trị được nguyên nhân, hay đó là tăng huyết áp vô căn thì mục tiêu điều trị nhằm loại bỏ yếu tố nguy cơ, kiểm soát mức huyết áp đề phòng biến chứng.
Thông qua việc theo dõi huyết áp thường xuyên tại nhà và ở phòng khám, chỉnh liều thuốc hạ áp một cách thích hợp, để đạt mục tiêu huyết áp chấp nhận được. Việc thay đổi lối sống là cực kì quan trọng như những khuyến cáo điều trị tăng huyết áp hiện nay nhấn mạnh lợi ích của nó như vậy. Thay đổi lối sống bao gồm: giảm cân, giảm ăn muối và chất béo bão hòa, giảm lượng calo trong chế độ ăn, tập thể dục đều đặn và uống rượu vừa phải, bổ sung calci, kali,… đều nằm ở phần đầu trong hướng dẫn điều trị.
Những thay đổi này đôi lúc tương đương với một thuốc điều trị huyết áp. Với những bệnh nhân tiền tăng huyết áp (nằm giữa 120/80 và 140/90 mmHg) việc thay đổi lối sống đã được khuyến cáo để ngăn ngừa sự tiến triển thành tăng huyết áp thực sự.
Thay đổi lối sống như: giảm 4,5kg có thể giúp hạ huyết áp ở một tỷ lệ lớn người béo phì, chế độ ăn nhiều hoa quả ít đạm muối có thể giúp hạ huyết áp, ăn ít hơn 6g muối/ ngày rất tốt cho tim mạch. Bệnh nhân tăng huyết áp nên đi bộ nhanh ít nhất 30 phút mỗi ngày, rèn luyện thể lực thường xuyên. Tư vấn kĩ việc hạn chế hút thuốc lá để bảo vệ tim mạch.
"Bên cạnh việc thay đổi lối sống lành mạnh, sử dụng thêm thuốc hạ áp đi kèm để đạt huyết áp mục tiêu là rất quan trọng. Biện pháp dùng thuốc được tiến hành kịp thời và lâu dài. Tăng huyết áp là do ảnh hưởng của nhiều cơ chế làm áp lực máu tăng lên và đơn trị liệu chỉ nhằm vào một trong những cơ chế này.
Vì vậy, phối hợp thuốc sẽ làm giảm liều, làm giảm được tác dụng phụ tăng theo liều của từng thuốc, hạn chế cơ chế điều hòa ngược của cơ thể làm cho việc đáp ứng của huyết áp tốt hơn và sự kiểm soát đạt nhanh chóng hơn đơn trị liệu", BS CKII. Lê Thị Diệu Hồng nhấn mạnh.
Tuy nhiên, để tránh những biến chứng đáng tiếc như trường hợp bệnh nhân ở Quảng Ninh mới đây, các bác sĩ khuyến cáo người dân có bệnh lý tăng huyết áp cần đến cơ sở y tế thăm khám định kỳ để được bác sĩ chuyên khoa tư vấn, lựa chọn thuốc và kê đơn sử dụng, điều chỉnh liều lượng phù hợp, giúp điều trị bệnh hiệu quả, giảm các nguy cơ tai biến mạch máu não, đột quỵ, suy tim, tránh tác dụng phụ không mong muốn và quá liều gây ngộ độc.