Tấm ‘kim bài’ thần kỳ của lính mũ nồi xanh Việt Nam tại Trung Phi

Văn Đức |

Ở Trung Phi đầy bạo lực, xe Liên hợp quốc qua trạm kiểm soát phiến quân cũng bị gây khó dễ, nhưng nếu có sĩ quan mặc áo in chữ Việt Nam sẽ được hồ hởi mời qua.

Trở về Việt Nam hơn 1 năm và lại vừa lên đường sang Nam Sudan làm nhiệm vụ, Thượng tá Lê Ngọc Sơn không thể quên những ấn tượng khi làm nhiệm vụ trong Phái bộ của lực lượng gìn giữ hoà bình Liên hợp quốc tại Cộng hoà Trung Phi (MINUSCA).

Đó chính là những câu chuyện bắt nguồn và gắn với hai chữ thiêng liêng “Việt Nam”.

Trước khi lên đường sang Cộng hòa Trung Phi làm nhiệm vụ nhiệm kỳ 2017 – 2018, Trung tá Sơn (nay là Thượng tá) không thể ngờ rằng ở đất nước châu Phi xa xôi, còn nghèo đói, loạn lạc, bệnh tật, hai chữ “Việt Nam” lại được người dân nhắc nhiều đến thế.

Chỉ hai chữ thôi nhưng tại đây nội hàm của nó lại là cả đất nước, con người, lịch sử Việt Nam, là Chủ tịch Hồ Chí Minh, là Đại tướng Võ Nguyên Giáp.

Và cũng chỉ hai chữ ấy hóa tấm “kim bài” đặc biệt giúp những chiến sĩ mũ nồi xanh Việt Nam nơi đây được chào đón thân thiện ngay cả khi đi qua trạm kiểm soát của phiến quân.

Theo Thượng tá Sơn, có lẽ lời nhận xét chân thành và ấn tượng nhất, khiến bất cứ ai được nghe đều cảm thấy tự hào khi là người Việt Nam, là lời của Thiếu tướng Traore Daniel Sidiki, Phó Tư lệnh Quân sự Phái bộ MINUSCA, nói với anh:

Tôi biết rất nhiều về Việt Nam, tôi rất yêu mến các bạn. Tôi cũng đọc và tìm hiểu rất nhiều về Tướng Giáp, về Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Tôi khâm phục lịch sử chiến tranh bảo vệ Tổ quốc của Việt Nam, và đặc biệt ấn tượng với chiến dịch Điện Biên Phủ. Tôi thực sự nể tài năng của Tướng Giáp, bản thân tôi luôn lấy hình tượng ông để nỗ lực phấn đấu”.

Tấm ‘kim bài’ thần kỳ của lính mũ nồi xanh Việt Nam tại Trung Phi - Ảnh 2.

Người dân Trung Phi luôn dành tình cảm đặc biệt cho các chiến sĩ mũ nồi xanh của Việt Nam.

Xét về lịch sử, Trung Phi và Việt Nam có nhiều điểm tương đồng. Trung Phi cũng từng là thuộc địa của Pháp. Sau chiến thắng Điện Biên Phủ năm 1954, khi Pháp rút quân khỏi Đông Dương, làn sóng đòi độc lập của các quốc gia thuộc địa của Pháp tại châu Phi rất mạnh mẽ.

Lấy Việt Nam là hình mẫu, họ đồng loạt nổi dậy vũ trang và phi vũ trang, đấu tranh chính trị đòi độc lập. Và thành công đã đến, Cộng hòa Trung Phi tuyên bố độc lập vào năm 1960.

Tấm phù hiệu vải thành “kim bài

Uy tín Việt Nam qua các cuộc chiến tranh là rất lớn. Người dân Trung Phi thấy được một Việt Nam hùng mạnh về quân sự, cho rằng bộ đội Việt Nam thật thiện chiến, kiên cường.

Khi làm việc mà họ biết mình là người Việt Nam, họ tỏ ra hợp tác làm việc với mình hơn” - Trung tá Vũ Văn Hiệp, người cũng hoàn thành nhiệm vụ ở MINUSCA trở về, chia sẻ.

Dọc đường công tác, phải gặp cả lực lượng đối lập và quân chính phủ. Mỗi lần thấy xe của Liên hợp quốc đi qua trạm kiểm soát, họ thường lục lọi rất kỹ.

Tuy nhiên, khi thấy xe có lá cờ đỏ sao vàng, sĩ quan mặc áo gắn phù hiệu vải có chữ ‘Việt Nam’ trên ngực, nhóm binh lính canh gác sẽ ngay lập tức cho qua” - anh Sơn cho biết thêm.

Mỗi lần như thế các chiến sĩ mũ nồi xanh Việt Nam lại có cảm giác như mình được có tấm “kim bài” đặc biệt trong tay vậy.

Cũng nhờ có thứ tình cảm đặc biệt đó của người dân Trung Phi mà sĩ quan Việt Nam thường được tín nhiệm giao nhiệm vụ dẫn các đoàn xe của Liên hợp quốc. Trong các chuyến công tác, ngoài treo cờ đỏ sao vàng, các sĩ quan Việt còn gắn thêm hai chữ “Việt Nam” trên xe.

Lực lượng làm nhiệm vụ bảo vệ an ninh và dọn dẹp vệ sinh trong Phái bộ cũng rất có thiện cảm khi gặp, tiếp xúc với các sĩ quan Việt Nam.

Mỗi lần đi qua cửa an ninh, họ đều đề nghị dạy họ lời chào của Việt Nam. Tiếng ‘Ô, xin chào!’, được họ nói ra mỗi khi gặp chúng tôi, tuy nghe không rõ nhưng cũng đủ tạo ra sự gần gũi, gắn kết giữa hai bên” - anh Sơn xúc động nhớ lại.

Thứ tình cảm gắn kết đó có lẽ còn được người dân Trung Phi truyền lại cho con em họ. Trên đường đi từ nhà đến Phái bộ, trẻ em nơi đây thường chạy ra bắt tay các sĩ quan Việt Nam.

Đang ở trong nhà mà nhìn qua khe cửa thấy chúng tôi, từ xa bọn nhỏ đã chạy ào ra để được bắt tay. Chúng phải chạy đuổi theo cho bằng kịp, thậm chí còn tranh nhau bắt tay trước” - anh Sơn cho biết.

Tấm ‘kim bài’ thần kỳ của lính mũ nồi xanh Việt Nam tại Trung Phi - Ảnh 3.

Các em nhỏ Trung Phi đặc biệt yêu quý "thầy giáo" Sơn và đất nước Việt Nam.

Yên tâm và ấm áp

Còn với nữ Trung tá Nguyễn Thị Liên, người mới sang Trung Phi nhận nhiệm vụ từ tháng 7, kỷ niệm gắn với hai chữ “Việt Nam” của chị cũng ngọt ngào vô cùng.

Ngay từ những giây phút đầu tiên khi đoàn sĩ quan đến cổng Phái bộ, tiếng hô vang "Việt Nam, Việt Nam" giúp chị trút bỏ hết mệt nhọc sau hành trình di chuyển hơn 20 giờ và không có chút gì xa lạ, thậm chí có cảm giác gần gũi như được chào đón trên chính quê hương vậy.

Một lần, trung tá Liên đến Phái bộ quên mang theo thẻ, đang định quay về nhà lấy thì người gác cổng vẫy lại và nói "Vào đi", thậm chí anh ta còn hồ hởi cho biết rất yêu quý và hoàn toàn tin tưởng những người lính đến từ Việt Nam.

Nữ sĩ quan chia sẻ cảm giác "yên tâm và ấm áp" khi ra khỏi phái bộ, đi đến nẻo đường, góc phố nào, chị và đồng đội cũng được những người da đen cười tươi chào hỏi từ xa nhờ dòng chữ in gắn trên ngực áo.

"Ở một đất nước châu Phi xa xôi, khi được đón tiếp như vậy, bạn sẽ thấy yêu đất nước mình hơn và cố gắng sống thật ý nghĩa, cố gắng lan tỏa yêu thương và truyền cảm hứng đến tất cả mọi người", trung tá Liên nói.

Tấm kim bài đặc biệt” mà những sĩ quan mũ nồi xanh Việt Nam có được ở đất nước Trung Phi xa xôi đầy bạo lực và nghèo đói không chỉ từ truyền thống, lịch sử hào hùng của dân tộc Việt Nam, mà còn được hun đắp hàng ngày qua những hoạt động, việc làm, những cử chỉ gần gũi như đồng bào mình của những người lính Cụ Hồ hiện đại.

Những sĩ quan Việt gieo con chữ, dạy người dân bản địa trồng rau, làm bánh, hướng dẫn họ sắp xếp, vun vén cuộc sống, giữ vệ sinh, đảm bảo sức khỏe.

Thượng tá Sơn nhớ lại ròng rã cả năm trời, ngoài nhiệm vụ ở văn phòng từ 8h sáng đến 5h chiều, thời gian còn lại anh miệt mài dạy học cho các em nhỏ bản địa. Từ soạn bài, tự làm giáo cụ, đứng lớp, đến tận nhà từng em để vận động đến lớp học chữ… anh không quản ngại việc gì.

Chính vì sự tận tình của “thầy giáo Sơn” mà lũ trẻ cũng rất gắn bó với anh và những gì liên quan đến hai chữ “Việt Nam”.

Anh Sơn nhớ lại: “Mỗi lần trên bảng xuất hiện dòng chữ ‘Việt Nam’, học sinh ở dưới lại đồng loạt hô vang ‘Việt Nam! Việt Nam!’ không ngớt. Khi đó, tôi cảm thấy rất xúc động. Tôi chưa bao giờ nghĩ rằng, ở một đất nước châu Phi xa xôi, vẫn có những thế hệ học trò yêu Việt Nam đến thế”.

Còn với Trung tá Liên, mỗi sáng Chủ nhật, dù khá mệt mỏi sau một tuần làm việc tại phái bộ, chị cũng không cho phép mình ngủ nướng hay nghỉ ngơi mà tất bật dậy sớm hơn ngày thường.

Bởi chị có hẹn với những người dân bản địa, với những mảnh vườn rau đang lớn từng ngày trên mảnh đất Trung Phi cằn cỗi này.

Tấm ‘kim bài’ thần kỳ của lính mũ nồi xanh Việt Nam tại Trung Phi - Ảnh 5.

Trung tá Liên dạy người dân Trung Phi cách trồng rau xanh.

Nhìn thấy nữ sĩ quan Việt Nam từ xa, hàng chục người dân đã reo lên sung sướng. Họ giơ bàn tay lên rồi cụp dần từng ngón, ý nói đã đếm ngược từng ngày chờ chị đến.

Và những giọt mồ hôi của người nữ sĩ quan Việt rơi cùng những người dân Trung Phi khi cuốc xới, đánh luống, gieo hạt, tưới tắm, bón phân, trừ sâu…

Với nỗ lực không mệt mỏi và kinh nghiệm tăng gia trong nhiều năm quân ngũ, chị Liên và các sĩ quan Việt Nam đã cải tạo những mảnh đất cằn cỗi thành những luống rau xanh mướt, những giàn bầu bí trĩu quả.

Rồi chị Liên còn hướng dẫn bà con bản địa các công thức món ăn Việt, cùng họ nấu nướng, nhảy múa và thưởng thức thành quả lao động của mình.

Mọi người quây quần đợi chờ, người thổi bếp, người bóc tỏi, người nhảy múa, rồi liên tục hỏi tên rau là gì? Mình bảo cứ gọi là muống Việt cho dễ nhớ nhau. Thế là Muống Việt đã vượt biên hợp pháp và nhập tịch Trung Phi không phải bằng container mà bằng túi nylon.

May mà trót lọt, sự sống lại sinh sôi”, nữ trung sĩ Việt Nam chia sẻ về bữa ăn cùng bà con người bản địa với món rau Việt thu hoạch trên đất Phi đầu tiên hôm cuối tháng 10 vừa qua sau mấy tuần canh tác.

Có lẽ không có sĩ quan nước nào tại Phái bộ MINUSCA để lại nhiều ấn tượng tốt đẹp trong lòng người dân Trung Phi như các sĩ quan của Việt Nam. Và chắc chắn cũng không có sĩ quan nước nào có được tấm “kim bài” đặc biệt như người sĩ quan Việt.

Đó là tình cảm, sự yêu mến, tôn trọng giữa hai quốc gia, hai dân tộc, và giữa con người với con người. Những người sĩ quan ấy đã làm tốt nhiệm vụ là sứ giả của nền văn hóa ‘anh bộ đội cụ Hồ’: luôn gần dân và yêu dân như người thân của mình để luôn được dân quý, dân tin, dân yêu.

Phái bộ của lực lượng gìn giữ hoà bình Liên Hợp Quốc tại Cộng hoà Trung Phi (MINUSCA) được thành lập vào tháng 4/2014, chia làm 4 phân khu (Đông, Tây, trung tâm và thủ đô).

Hiện 43 quốc gia gửi lực lượng tham gia Phái bộ trong đó có quân đội Việt Nam, với nhiệm vụ quan trọng hàng đầu là bảo vệ dân thường, hỗ trợ quá trình chuyển giao quyền lực tại Trung Phi trong bối cảnh nhiều nhóm vũ trang khác nhau đang hoạt động.

MINUSCA hiện có 5 sĩ quan quân đội Việt Nam là trung tá Hoàng Trung Kiên (tham mưu tác chiến), trung tá Nguyễn Thị Liên (tham mưu đào tạo), thiếu tá Nguyễn Đức Thắng (tham mưu phân tích tình báo), đại úy Lê Hồng Quân (tham mưu trang bị) và đại úy Trần Thanh Sơn (quan sát viên quân sự).

Đường dây nóng: 0943 113 999

Soha
Báo lỗi cho Soha

*Vui lòng nhập đủ thông tin email hoặc số điện thoại