Chiến tranh hải quân hiện đại đang trở thành một xu hướng chủ đạo trong các cuộc xung đột vũ trang hiện tại và tương lai. Với một đất nước có đường bờ biển dài như Việt Nam thì việc xây dựng một lực lượng hải quân hùng mạnh có ý nghĩa sống còn trong việc bảo vệ chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ quốc gia.
Trong biên chế Hải quân Việt Nam hiện nay, loại tàu chiến mặt nước duy nhất có khả năng thực hiện nhiệm vụ tác chiến chống ngầm là tàu hộ tống lớp Petya-II/III.
Tàu được thiết kế với hệ thống vũ khí chuyên dụng cho chiến tranh chống ngầm là hệ thống 5 phóng ngư lôi đường kính 400mm đối với tàu Petya-II, 3 ống phóng ngư lôi 533mm với tàu Petya-III. Vũ khí khác trên tàu bao gồm 2 pháo hạm nòng kép 76mm, 2 hệ thống phóng rocket chống ngầm RBU-6000. Tuy nhiên, xu hướng phát triển tàu chiến trên thế giới đã chuyển sang phát triển các tàu chiến có khả năng đa nhiệm chứ không còn tập trung vào một nhiệm vụ cụ thể như trước.
Petya-II/III có thể coi là tàu chiến duy nhất đang hoạt động với vai trò chống ngầm chuyên dụng. Tuy vậy thì khả năng chống ngầm của Petya-II/III cũng không được đánh giá cao.
Để hoàn thiện năng lực tác chiến chống ngầm, nâng cao hiệu quả hoạt động cho tàu ngầm Kilo, Việt Nam cần trang bị các tàu khu trục nhỏ có khả năng tác chiến chống ngầm mạnh mẽ.
Đối với vấn đề hoàn thiện năng lực tác chiến của Hải quân Việt Nam thì tàu khu trục nhỏ Đề án 1135.6 được xem là một sự lựa chọn hợp lý. Đề án 1135.6 được phát triển sửa đổi từ tàu khu trục nhỏ lớp Krivak-III của Hải quân Nga cho Ấn Độ còn được biết đến với tên gọi tàu khu trục nhỏ lớp Talwar.
Tàu được thiết kế để thực hiện một loạt các nhiệm vụ khác nhau như: Tuần tra, tác chiến chống tàu nổi, phòng không và chiến tranh chống ngầm, hỗ trợ chi viện hỏa lực cho lực lượng đổ bộ.
Tàu khu trục nhỏ Đề án 1135.6 được trang bị hệ thống điện tử hỗn hợp Nga - Ấn, cảm biến chính của tàu là radar giám sát và tìm kiếm mục tiêu Fregat M2EM 3D được gắn ở trên đỉnh cột buồm. Radar này có phạm vi tìm kiếm mục tiêu khoảng 300 km. Nhiệm vụ của radar này là phát hiện các mục tiêu đường không, các mục tiêu bay thấp, các mục tiêu trên mặt nước, xác định trạng thái của mục tiêu.
Phối hợp cùng với Fregat là radar 3Ts-25E Garpun-B. Radar này hoạt động ở băng tần I radar có khả năng hoạt động ở 2 chế độ chủ động và thụ động cho việc tìm kiếm và phát hiện mục tiêu mặt nước tầm xa.
Ở chế độ chủ động, phạm vi tìm kiếm mục tiêu của radar khoảng 250 km, ở chế độ thụ động phạm vi tìm kiếm lên đến 450 km. Radar này được bố trí ở phía sau boong tàu.
Ngoài ra, hai bên đỉnh cột buồm còn được trang bị radar dẫn đường MR-212 và radar giám sát tầm ngắn Kelvin Hughes Nucleus-2 6000A. Tàu được trang bị hệ thống dẫn hướng quán tính Ladoga-ME-11356. Tàu khu trục nhỏ lớp Talwar được trang bị hệ thống điều khiển hỏa lực tích hợp 5P-10E Puma, hệ thống này có khả năng tham chiến với 4 mục tiêu cùng lúc.
Tàu được trang bị hệ thống chiến tranh điện tử tích hợp TK-25-E5. Hệ thống phóng mồi bẫy PK-10 cùng 4 hệ thống phóng KT-216. Với nhiệm vụ chiến tranh chống ngầm, tàu được trang bị hệ thống định vị thủy âm APSOH gắn ở phần đáy mũi tàu. Ngoài ra, nhiệm vụ săn ngầm còn được sự hỗ trợ của sát thủ săn ngầm KA-28.
Tàu được vũ trang 1 pháo hạm A-190E 100mm. Pháo có tốc độ bắn tối đa 60 phát/phút với tầm bắn tối đa 15,2 km. Đuôi tàu được trang bị 2 hệ thống phòng thủ tầm cực gần tích hợp pháo - tên lửa Kashtan cho nhiệm vụ đánh chặn.
Về đối không, tàu được trang bị 1 hệ thống hải đối không đa kênh Shtil với bệ phóng 3S-90 được đặt ngay phía sau pháo chính. Hệ thống sử dụng đạn tên lửa 9M317, NATO định danh SS-N-12, tầm bắn tối đa 50 km. Cơ số đạn tên lửa mang theo 24 quả được nạp tự động bằng một cánh tay từ ổ quay chứa đạn tên lửa ở phía dưới boong tàu.
Vũ khí uy lực nhất của tàu là hệ thống phóng thẳng đứng VLS sử dụng 8 đạn tên lửa chống hạm 3M54E Club-N. Đạn tên lửa này được dẫn hướng đến mục tiêu kết hợp dẫn hướng quán tính và radar bán chủ động với tầm bắn 220 km, tốc độ pha cuối của tên lửa lên đến Mach-2.9.
Với nhiệm vụ chống ngầm, tàu được trang bị 2 hệ thống phóng rocket chống ngầm RBU-6000 với tầm bắn tối đa 4.300 mét độ sâu hoạt động lên đến 1.000 mét. Hai cụm phóng ngư lôi chống ngầm 533mm với 2 ống phóng/cụm sử dụng ngư lôi dẫn hướng âm thanh thụ động SET-65E/53-65KE với phạm vi hoạt động tối đa 16 km.
Tàu khu trục nhỏ Đề án 1135.6 có chiều dài 124,8 mét, rộng 15,2 mét, mớn nước 4,2 mét, lượng giãn nước tiêu chuẩn 3.800 tấn, toàn tải 4.035 tấn, thủy thủ đoàn 190 người, thời gian hoạt động liên tục không dưới 30 ngày. Hệ thống động lực trên tàu có tổng công suất 57.000 mã lực, tốc độ tối đa đạt 32 hải lý/giờ (58 km/h), phạm vi hoạt động 7.800 km.
Như vậy, tàu khu trục nhỏ Đề án 1135.6 có thể hoàn thiện năng lực phòng không cấp biên đội tàu của Hải quân Việt Nam. Nhập khẩu tàu khu trục nhỏ Đề án 1135.6 là một bước tiến quan trọng để hoàn thiện năng lực tác chiến của Hải quân Việt Nam.