Thế kỷ 20, với sự phát triển vượt bậc của công nghệ hàng không và tên lửa , đã gần như biến đối hoàn toàn nền văn minh của nhân loại, cũng như hình thái chiến tranh hiện đại. Cùng với sự xuất hiện của vũ khí hạt nhân, các quốc gia sở hữu công nghệ tên lửa hiện đại không cần phải đem quân viễn chinh tiêu diệt đối thủ, mà với chỉ một nút bấm đã có thể xóa sổ hoàn toàn một quốc gia, thậm chí là toàn nhân loại.
Tuy nhiên, công nghệ tên lửa, mà đặc biệt là công nghệ phát triển tên lửa đạn đạo liên lục địa (ICBM) có tính kỹ thuật và kế thừa rất cao nên chỉ những cường quốc với tiềm lực công nghệ và khoa học ở trình độ cao mới có thể sở hữu.
Trong thực tế, trên thế giới các quốc gia sở hữu ICBM cũng chỉ có thể đếm trên đầu ngón tay. Đáng kể nhất trong số đó hai cường quốc Nga và Mỹ. Trong nhiều thập kỷ chiến tranh Lạnh ganh đua phát triển ICBM, cả hai nước đã sở hữu kho tên lửa và vũ khí hạt nhân đủ để hủy diệt thế giới vài chục lần.
ICBM là các dòng tên lửa đạn đạo có kết cấu nhiều tầng phóng, có tầm bắn trên 5.500km và mang tối thiểu được một đầu đạt hạt nhân. Ngoài ra, ICBM còn được phân biệt bởi nhiều yếu tố khác.
Bước đột phá Topol-M
Là sản phẩm của Viện Nhiệt học Moscow, Nga phát triển từ đầu những năm 1990 và do xưởng chế tạo máy Votkinsk lắp ráp, ngay từ khi ra mắt, RT-2UTTKh Topol-M (tên mã NATO là SS-27 Sickle B) được coi là hướng phát triển ICBM mới của Nga với việc áp dụng công nghệ động cơ đẩy tên lửa sử dụng nhiên liệu rắn và được kế thừa nhiều công nghệ đặc thù của ICBM Nga.
Trong thực tế, ICBM Topol-M có kết cấu ba tầng phóng với phiên bản giếng phóng cố định và trang bị trên xe phóng dã chiến đặc chủng. Tên lửa dài 22,7m, đường kính thân đạt 1,9m và tổng trọng lượng đạt 47,2 tấn (trong đó khối lượng đầu đạn mang theo đạt 1,2 tấn).
Thiết kế tiêu chuẩn của Topol-M là mang theo đầu đạn hạt nhân đơn khối có sức nổ tương đương 800 Kilotone được trang bị công nghệ tự dẫn độc lập MIRV. Theo lời Tổng công trình sư Yuri Solomonov, Topol-M cũng có thể hoán cải để mang 4-6 đầu đạn hạt nhân cỡ nhỏ để giảm khả năng bị đánh chặn.
Tầm bắn tối đa của Topol-M đạt 10.500km và sai số vòng tròn đồng tâm tới mục tiêu (CEP) khoảng 200m (tầm bắn của ICBM thực tế không cần quá 12.000km vì đây cũng là độ dài của đường kính trái đất, 12.742km). Để có được CEP như trên, Topol-M sử dụng hệ thống dẫn đường hỗn hợp vệ tinh, quán tính và đạo hàng hình sao.
Với tầm bắn lớn, dẫn đường quán tính thường không chính xác do sự bất ổn của từ trường trái đất. Để khắc phục, ICBM sử dụng bản đồ vị trí các ngôi sao để tham chiếu với các hệ dẫn đường khác đưa đầu đạn tới đích với sai số ít nhất.
Điểm khác biệt nữa so với ICBM của Mỹ là Nga luôn ưu tiên phát triển phiên bản đặt trên xe dã chiến đặc chủng bên cạnh phiên bản giếng phóng và ICBM Topol-M cũng không là ngoại lệ. Điểm yếu của ICBM đặt trong giếng phóng là dù bệ phóng được gia cố tốt tới mấy thì cũng chỉ có xác suất chịu được một số đợt tấn công phủ đầu bằng vũ khí hạt nhân. Nếu bị tấn công cấp tập thì mất khả năng đánh trả.
Trong khi đó, phiên bản di động (đặt trên xe dã chiến MZKT-79221) có thể tự cơ động tới vị trí bất kỳ để phóng tên lửa mà đối phương khó có thể phát hiện được, đặc biệt với đất nước rộng lớn như Nga. Ngoài ra, ICBM Topol-M sử dụng cơ cấu phóng thẳng đứng nguội giúp đơn giản hóa cơ cấu bệ phóng. Ở cơ cấu phóng này, hệ thống đẩy đạn tên lửa khỏi ống (giếng) phóng rồi tên lửa mới kích hoạt động cơ tự thân.
Tiếp đó, điểm mạnh của ICBM sử dụng nhiên liệu rắn như Topol-M có khả tăng tăng tốc nhanh hơn hẳn dòng ICBM nhiên liệu lỏng trước đó của Nga. Gia tốc của Topol-M lúc tăng tốc tối đa đạt 7.320m/s².
Sức mạnh 'xuyên thủng'
Các chuyên gia Nga luôn khẳng định, ICBM Topol-M miễn nhiễm với lá chắn tên lửa của Mỹ. Điều này không phải không có cơ sở.
Do sử dụng nhiên liệu rắn, thời gian tăng tốc (phát nhiệt đặc thù) của ICBM Topol-M rất ngắn và mờ nhạt, vệ tinh viễn thám quân sự có rất ít thời gian để xác định và phân biệt được nó. Cũng vì thế không thể kịp cảnh báo trước cho hệ thống phòng thủ tên lửa để đánh chặn. Thực tế, ICBM dễ tổn thương nhất là ở giai đoạn tăng tốc do tên lửa cần lấy độ cao, không thể tự cơ động tránh né được.
Tiếp đó, ở pha cuối, khi tên lửa đã thả các đầu đạn con tự dẫn MIRV (thường là RS-24) và các thiết bị gây nhiễu, thì việc đánh chặn các vật thể nhỏ đang bay ở vận tốc vũ trụ cấp 1 (7,9km/giây) gần như là không thể.
Ngoài ra, hệ thống vỏ bọc của đầu đạn trang bị trên ICBM Topol-M được thiết kế cực kỳ chắc chắn mà chỉ có vụ nổ hạt nhân mới có thể phá hủy được nó, nên các phương thức gây nhiễu bằng công nghệ EMP hay quang điện đều vô hiệu. Khi tới điểm đã định, đầu đạn sẽ tự kích nổ ở độ cao 500m để phát huy tối đa khả năng hủy diệt.