Chỉ tính riêng trong 50 năm cuối của thế kỷ XX, đã xảy ra 260 cuộc chiến tranh cục bộ và xung đột vũ trang.
Trong suốt toàn bộ lịch sử nhân loại, con người chỉ sống 292 năm trong điều kiện hòa bình, nghĩa là trong 100 năm không có một tuần lễ hòa bình! Điển hình là thế kỷ XX đã kết thúc bằng hai cuộc chiến tranh đẫm máu là Chiến tranh vùng Vịnh và Chiến tranh Kosovo.
Một nghịch lý bi thảm của thế giới hiện đại trong khi các dân tộc và các quốc gia nhận thức rõ ràng họ đang sống trong một thế giới gồm các nước phụ thuộc lẫn nhau, nhưng vẫn không thể loại trừ được chiến tranh như là một phương tiện giải quyết các mâu thuẫn khác.
Mặc dù loài người đã ngăn chặn được khả năng bùng nổ Chiến tranh thế giới lần thứ 3 trong giai đoạn chạy đua vũ trang, nhưng việc dùng vũ khí để giải quyết các tình huống xung đột vẫn là một nét đặc trưng của thời đại ngày nay. Cho nên việc nghiên cứu tính chất và đặc điểm các cuộc chiến tranh cục bộ và xung đột quân sự, từ đó rút ra những bài học cần thiết để phát triển chiến lược và nghệ thuật quân sự sẽ vẫn là một yêu cầu cấp thiết của thế kỷ XXI.
Từ kết quả các cuộc chiến tranh trong nửa cuối thế kỷ XX, có thể dự báo được đặc điểm chiến tranh và xung đột cục bộ trong tương lai như sau:
Thứ nhất: Trong vô vàn các nguyên nhân và mâu thuẫn về kinh tế, chính trị - xã hội dẫn tới chiến tranh và xung đột quân sự thì lợi ích của các nước lớn có trình độ phát triển cao, nhiều khi không trực tiếp tham gia vào các hành động quân sự, sẽ có tác động đáng kể nhất đến diễn biến và cục diện các cuộc chiến tranh và xung đội.
Trong thế kỷ XX, nhiều cuộc chiến tranh đã không xảy ra, hoặc đã có thể có các kết cục khác, nếu như các bên tham chiến không nhận được sự giúp đỡ về kinh tế, quân sự, chính trị của các cường quốc lớn. Bằng chứng là sự giúp đỡ của Mỹ đã dẫn đến 4 cuộc chiến tranh giữa các nước Arab và Israel, cuộc chiến tranh Israel xâm lược Liban, cuộc chiến tranh Triều Tiên (1959 – 1952), cuộc Chiến tranh vùng Vịnh (1990 – 1991). Sau khi Liên Xô tan rã, Mỹ muốn áp đặt lợi ích của họ lên toàn thế giới, trước hết là ở châu Âu, và họ đã gây ra cuộc chiến tranh xâm lược Nam Tư (1999) và hàng loạt các cuộc xung đột quân sự ở Trung Đông.
Trong thế kỷ XXI, có thể dự báo lợi ích và mâu thuẫn giữa các nước lớn có trình độ phát triển cao sẽ làm sâu sắc thêm mâu thuẫn giữa các quốc gia và các giai cấp xã hội khác nhau, tạo tiền đề để châm ngòi chiến tranh. Còn sự giúp đỡ và tham gia trực tiếp của các nước lớn trong các hoạt động quân sự sẽ ảnh hưởng đến diễn biến và cục diện các cuộc chiến tranh cục bộ và xung đột quân sự
Thứ hai: Sẽ rất dễ nhận diện được kẻ xâm lược, đó thường là những kẻ chủ trương dùng sức mạnh quân sự để giải quyết các mâu thuẫn nảy sinh. Trong trường hợp này, cục diện cuộc chiến phụ thuộc rất lớn vào việc các nước bị xâm lược cảnh giác nhận thức rõ tính chất chính nghĩa của cuộc chiến tranh mà ho phải tiến hành.
Từ đó, các nước bị xâm lược có được sức mạnh có thể làm thay đổi diễn biến cuộc chiến về phía có lợi cho họ và giành chiến thắng trước kẻ xâm lược mạnh hơn nhiều lần. Một bài học điển hình là cuộc kháng chiến của Việt Nam trước Pháp và Mỹ.
Thứ ba: Nhân dân các bên tham chiến cũng như nhân dân yêu chuộng hòa bình đặc biệt nhạy cảm với các tổn thất về dân thường. Nếu trong các cuộc Chiến tranh thế giới của thế kỷ XX, thiệt hại về sinh mạng được coi là sự tất yếu, thì trong các cuộc xung đột cục bộ thế kỷ XXI, thiệt hại về sinh mạng sẽ có tác động rất mạnh mẽ đến tình hình chính trị - xã hội trong các nước tham chiến. Trong điều kiện đó, ở đâu tính chất chính nghĩa của chiến tranh được nhận thức rõ ràng thì dân chúng thà hy sinh và ủng hộ mạnh mẽ chính phủ và quân đội, sẵn sàng đứng lên chiến đấu bảo vệ lợi ích của đất nước.
Một bài học điển hình là ý chí thà hy sinh tất cả chứ không chịu mất nước, không chịu làm nô lệ của nhân dân Việt Nam chống lại các cuộc chiến tranh xâm lược; ý chí hy sinh đến người cuối cùng của nhân dân Nam Tư để bảo vệ chủ quyền chống lại cuộc chiến tranh xâm lược của NATO.
Trong trường hợp chiến tranh phi nghĩa, tổn thất về sinh mạnh trong chiến tranh có thể có tác động rất tiêu cực đối với toàn bộ xã hội. Do đó, các cuộc chiến tranh và xung đột cục bộ, chính phủ và quân đội các nước sẽ đặc biệt chú ý các biện pháp nhằm hạn chế tổn thất về sinh mạng ở mức thấp nhất.
Thứ tư: Vũ khí chính xác sẽ được sử dụng phổ cập trong các cuộc chiến tranh và xung đột cục bộ nhằm tạo hiệu quả tàn phá đến mức tối đa nhưng lại giảm đến mức thấp nhất về thiệt hại sinh mạng với dân thường. Bằng cách đó bên gây chiến có thể sẽ tránh được nỗi bất bình của dân chúng. Hoặc nếu có chiến tranh xảy ra ở trong nước thì cũng hạn chế được thiệt hại của đông đảo dân chúng không tham gia các hoạt động quân sự.
Thứ năm: Kinh nghiệm các cuộc chiến tranh thế kỷ XX chứng tỏ trong các cuộc xung đột cục bộ, các bên đều tranh thủ mọi điều kiện để lôi kéo đồng minh và tranh thủ sự ủng hộ của dư luận quốc tế. Sự ủng hộ về mặt tinh thần của các nước khác và cộng đồng quốc tế tạo sức mạnh cho các bên tham chiến.
Nếu các nước hữu nghị được huy động để giúp đỡ về mặt kinh tế, chính trị - xã hội hoặc để phong tỏa đối phương thì những hành động đó có ảnh hưởng đáng kể đến diễn biến và kết cục xung đột. Sự ủng hộ đó có thể được so sánh như là sự tham gia trực tiếp vào các hoạt động quân sự. Vì thế mà trong những năm gần đây, các nước đi xâm chiếm đã lợi dụng công pháp quốc tế để biện minh cho hành động xâm lược của mình. Một ví dụ điển hình là chiến dịch "Cáo sa mạc” của Mỹ.
Thứ sáu: Tất cả các cuộc chiến tranh và xung đột cục bộ trong nửa cuối thế kỷ XX đều sử dụng vũ khí thông thường. Nhưng cũng có một số vũ khí sát thương hàng loạt mà chủ yếu là vũ khí hạt nhân, vũ khí hóa học cũng được sử dụng. Từ đó thấy được loại vũ khí này là một phương tiện có tính chất tối hậu nhằm giải thoát khỏi tình trạng khẩn cấp khi một bên tham chiến không còn đủ lực lượng và phương tiện để tránh khỏi thảm họa về quân sự.
Vũ khí sát thương hàng loạt cũng có thể được sử dụng khi hoàn toàn tin tưởng rằng đối phương không có biện pháp trả đũa thích đáng. Nghĩa là một nước nào đó có vũ khí sát thương hàng loạt sẽ có sức mạnh kiềm chế bên xâm lược mở rộng hoặc leo thang các hành động quân sự và đồng thời kiềm chế đối phương trong việc sử dụng vũ khí tương tự. Chiến tranh hạt nhân mới trong học thuyết quân sự của Liên bang Nga là một minh chứng rõ ràng cho xu hướng này.
Thứ bảy: Quy mô không gian của các cuộc chiến tranh và xung đột cục bộ trong thế kỷ trước thường bị hạn chế trong khu vực có các hoạt động quân sự. Nhưng do có sự phát triển của các phương tiện chiến đấu, phạm vi đó sẽ được mở rộng. Cuộc chiến tranh vùng Vịnh chứng tỏ hoạt động quân sự trên toàn bộ lãnh thổ của các bên tham chiến vượt ra khỏi khuôn khổ hoạt động của lục quân.
Còn ở chiến tranh Kosovo, không quân NATO đã tiến công vào các mục tiêu nằm rải rác trên toàn bộ lãnh thổ Nam Tư. Như vậy, trong thế kỷ XXI và sau này, các cuộc chiến tranh và xung đột cục bộ mặc dù hạn chế về tính chất và khu vực hoạt động nhưng luôn luôn tiềm ẩn nguy cơ các bên tham chiến sẽ mở các đòn tấn công ồ ạt trên toàn bộ lãnh thổ đối phương mà không giới hạn trong khu vực giao tranh có các hành động quân sự trực tiếp.
Thứ tám: Chiến tranh trong thế kỷ 21 là chiến tranh chớp nhoáng, tốc độ cao, với thời gian nhanh nhất. Trong thế kỷ XX, thời gian kéo dài chiến tranh và xung đột cục bộ nắm trong một phạm vi rất rộng: Từ 6 ngày trong cuộc chiến tranh lần thứ 3 giữa các nước Arab và Israel (từ ngày 5 đến 10 - 6 – 1967) đến 8 năm trong cuộc chiến tranh giữa Iran và Iraq (1980 – 1988), và phụ thuộc chủ yếu vào việc các bên đã đạt được mục đích của chiến tranh hoặc do cả hai bên đều cạn kiệt về tiềm lực kinh tế, quân sự, chính trị, tinh thần. Qua đó có thể thấy được một số quy luật quan trọng có thể có ý nghĩa trong thế kỷ XXI.
Nếu một trong các bên tham chiến không đạt được mục đích đề ra trong thời gian quy ước thì chiến tranh sẽ kéo dài và đưa đến những kết cục không thể dự báo trước đối với bên gây chiến. Chiến thắng thường nghiêng về bên tiến công và thuộc về bên nào có ưu thế đáng kể về chiến lược quân sự, tâm lý – tinh thần, hỏa lực và công nghệ so với đối phương với thời gian ngắn. Nhưng dễ dàng nghiêng về một cuộc chiến tranh nhân dân
Trong các cuộc chiến tranh chớp nhoáng, các đội quân được xây dựng trên cơ sở chuyên nghiệp sẽ có ưu thế mạnh hơn các đội quân được xây dựng trên các nguyên tắc tổ chức khác. Tuy nhiên, trong các cuộc chiến tranh kéo dài, ưu thế sẽ thuộc về các đội quân của nước nào được xây dựng trên cơ sở quốc phòng toàn dân bởi vì nước đó có thể huy động toàn bộ nhân dân tham gia chiến tranh và kết cục họ sẽ giành được chiến thắng của một cuộc chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc.
Thứ chín: Chiến tranh hiện đại là cuộc chiến tranh dồn nén thời gian, và được kéo dài ra thành nhiều giai đoạn, nhưng thực tế cho thấy, lý thuyết của chiến tranh dồn nén thời gian đến nay vẫn chưa có được một kết quả hoàn hảo. Ngoại trừ cuộc chiến tranh cục bộ chống lại Gruzia. Nếu bên phòng ngự đánh trả được đòn tiến công đầu tiên của đối phương và động viên được đông đảo lực lượng tham gia chiến tranh thì chiến tranh sẽ kéo dài và rất khó đoán được kết cục của chiến tranh.
Cơ sở để giành chiến thắng trong giai đoạn đầu của chiến tranh thường được xây dựng từ trong thời bình và đặc biệt được tăng cường trong thời kỳ chuẩn bị chiến tranh. Trong giai đoạn đầu, bên khởi chiến sẽ tạo ra ưu thế về lực lượng, phương tiện, công nghệ, tiến hành bố trí lại lực lượng, tổ chức bảo đảm vật chất kỹ thuật tại nơi sẽ xảy ra chiến sự. Ngoài ra, họ còn tiến hành các biện pháp phong tỏa kinh tế, chính trị, ngoại giao mà đặc biệt là phong tỏa đối phương về mặt quân sự, tiến hành các hoạt động đặc biệt và sử dụng các lực lượng chống đối để gây mất ổn định tình hình trong nước.
Các khối liên minh sẽ tạo dựng và lôi cuốn các tổ chức quốc tế đứng về phía họ. Trong giai đoạn chuẩn bị thường có các biện pháp phô trương sức mạnh. Trong giai đoạn đe dọa chiến tranh, các bên sẽ tiến hành các chiến dịch chiến tranh thông tin với cường độ cao nhằm tác động mạnh mẽ về mặt tâm lý và tinh thần đối với dân chúng và quân đội của đối phương. Do đó, giai đoạn đe dọa và chuẩn bị chiến tranh có tầm quan trọng đặc biệt và có thể coi như một giai đoạn độc lập và là một trong các diễn biến của xung đột quân sự.
Thứ mười: Các xu hướng cơ bản trong việc phát triển vũ khí trang bị và kỹ thuật quân sự và các phương thức sử dụng đã tạo ra một động lực mới cho sự phát triển nghệ thuật quân sự. Trước hết có thể thấy khả năng cơ động cao của các phương tiện hỏa lực, chiều sâu và độ chính xác của các đòn tiến công hỏa lực cho phép các bên tham chiến tiến công trên suốt chiều sâu đội hình chiến dịch và trên toàn lãnh thổ của đối phương, nhanh chóng thay đổi hướng tiến công nhằm vào các điểm dễ bị tổn thương nhất.
Vì thế, chiến tranh trong thế kỷ XXI sẽ có tính năng động rất cao và phạm vi không gian tác chiến rất rộng lớn, trên vũ trụ, trên không, trên biển, dưới mặt biển và trên mặt đất. Để bảo toàn lực lượng chiến đấu và giảm thiểu tổn thất trước các phương tiện hỏa lực tầm xa và có độ chính xác cao, các lực lượng tác chiến phân tán lực lượng, cơ động và ngụy trang, đồng thời tập trung hỏa lực nhiều chiều vào các hướng tiến công chủ yếu bằng cách kịp thời và nhanh chóng cơ động lực lượng và phương tiện nhằm tiêu diệt mục tiêu.
Chiến tranh hiện đại có tính đặc trưng là nhanh chóng thay đổi hướng tập trung hoặc khu vực tập trung các lực lượng chủ yếu. Được trang bị vũ khí chính xác cao, bộ binh hiện nay thường không tiến hành đột phá hệ thống phòng ngự, mà tìm kiếm các khu vực dễ bị tổn thương nhất hoặc né tránh các khu vực phòng thủ mạnh, nhanh chóng cơ động lực lượng theo chính diện để kịp thời tăng cường lực lượng trên các hướng có nguy cơ bị tấn công.
Trong các cuộc chiến tranh tương lai có thể sẽ không có hành động đột phá phòng ngự theo khái niệm cổ điển. Phương án hay được lựa chọn nhất là vòng tránh các lực lượng phòng thủ mạnh, hoặc sử dụng vũ khí có nguyên lý mới để đột phá hệ thống phòng ngự.
Ví dụ trong các cuộc chiến tranh hiện đại có sử dụng xe tăng và vũ khí chống tăng có điều khiển chính xác cao thì vũ khí chống tăng thường có ưu thế hơn. Do đó, xe tăng và các phương tiện bọc thép khác được sử dụng chủ yếu để phát triển kết quả sát thương và hủy diệt của vũ khí hiện đại, để nhanh chóng cơ động lực lượng và bảo vệ bộ đội trong quá trình chiến đấu.
Các trận đánh và các hoạt động chiến đấu sẽ được tiến hành theo các hướng độc lập khác nhau trong đội hình chiến dịch. Các hệ thống chỉ huy, trinh sát và chiến tranh điện tử sẽ nâng cao đáng kể hiệu quả chiến đấu. Ngày nay, trinh sát và tác chiến điện tử không còn là hình thức bảo đảm chiến đấu, mà là một lực lượng chiến đấu thực sự. Trong tương lai, các lực lượng và phương tiện này sẽ là một bộ phận đặc biệt hợp thành đội hình chiến dịch. Vì thế, đó là các lực lượng và phương tiện tác chiến điện tử được các bên ưu tiên tiêu diệt đầu tiên nhằm làm giảm hiệu quả chiến đấu của đối phương.
Hiện nay, các nước công nghiệp phát triển đưa các phương tiện trinh sát, dẫn đường và truyền thông vào vũ trụ. Do đó, các biện pháp triển khai chiến tranh thông tin trong các cuộc chiến tranh và xung đột cục bộ sẽ tiến hành chủ yếu từ vũ trụ. Trong những năm đầu của thế kỷ 21, khả năng tăng cường năng lực tác chiến của lực lượng vũ trụ quân sự sẽ ngày càng tăng.
Trong điều kiện hiện đại, khi hỏa lực của vũ khí sát thương trở thành một yếu tố quyết định sự thành bại của chiến trường thì vai trò của không quân và tên lửa chiến trường sẽ tăng lên vượt bậc trong các cuộc chiến tranh và xung đột cục bộ. Quân đội các nước có công nghệ phát triển cao có khả năng tiến công trên toàn bộ lãnh thổ của đối phương và tiến công có chọn lọc vào các mục tiêu ảnh hưởng sức mạnh toàn bộ tiềm lực kinh tế - quân sự của đối phương.
Kinh nghiệm chiến tranh vùng Vịnh và chiến tranh Kosovo chứng tỏ do khả năng chiến đấu ngày càng tăng của các loại máy bay và các phương tiện tiến công đường không, nên trong chiến tranh tương lai sẽ không sử dụng các phi đoàn không quân tiến quân ồ ạt mà sẽ sử dụng các cụm máy bay tấn công ngoài đường chân trời hoặc các tốp máy bay tàng hình, máy bay không người lái kết hợp với các loại tên lửa và vũ khí thông minh. Không quân và tên lửa hiện đại có khả năng tiến công từ những khoảng cách an toàn.
Do đó, bên phòng thủ phải áp dụng phối hợp nhiều phương thức khác nhau trong hoạt động phòng không. Đặc biệt, cần chú trọng bảo vệ hạ tầng cơ sở như giao thông, truyền thông và các cơ sở năng lượng, các cơ quan đầu não. Từng bước, các lực lượng phòng không cũng phải vươn đến tận vị trí xuất phát của vũ khí tiến công, mà hệ thống phòng không S-400 là một điển hình.
Thứ mười một: Hình thành loại hình chiến tranh nhằm vào hệ thống chỉ huy và điều khiển học, gọi tắt là chiến tranh chỉ huy điều khiển, bao gồm các đặc trưng sau:
Hệ thống lãnh đạo chỉ huy có trình độ cao là "bộ não” của chiến tranh có điều khiển. Thực tiễn các cuộc Chiến tranh hiện đại đã chứng tỏ nếu bộ máy chỉ huy không có tri thức hiện đại thì không thể chỉ huy các hoạt động tác chiến với trang thiết bị hiện đại, không gian chiến trường đa dạng.
Chiến tranh có điều khiển đã đặt ra yêu cầu rất cao về trình độ tổng hợp của người chỉ huy. Một là, phải có trình độ tri thức cao. Trình độ tri thức của người chỉ huy có ảnh hưởng rất rõ đến thắng thua trong chiến tranh công nghệ cao. Hai là, có trình độ và năng lực ra quyết định độc lập cao.
Người chỉ huy hiện đại cần phải có quan điểm toàn cục và tư duy chiến lược, chiến thuật khoa học, có trình độ lý luận quân sự và lý luận quân sự phù hợp với chiến tranh thông tin, có quan điểm mới về giành thắng lợi trên chiến trường bằng chiến tranh thông tin, nắm bắt khả năng tác chiến của địch, hiểu sâu sắc năng lực thực tiễn của ta, hiểu biết sâu sắc chiến trường, có khả năng phân tích tổng hợp, khả năng xử lý thông tin cao và đưa ra những quyết định chính xác.
Phải nắm được tri thức ngành công nghệ thông tin và lý luận mới về tác chiến trong môi trường thông tin, có hiểu biết cao về khoa học kỹ thuật hiện đại tương thích với tác chiến thông tin, thành thạo sử dụng công nghệ thông tin để chỉ huy tác chiến.
Quyền kiểm soát thông tin là tiêu điểm của chiến tranh có điều khiển.
Trong thế kỷ XXI, thông tin là nguồn tài nguyên quan trọng gắn bó với mọi hoạt động tác chiến, trở thành cơ sở vật chất của tác chiến thông tin và của mọi lĩnh vực có liên quan đến tác chiến thông tin như chính trị, kinh tế, ngoại giao, văn hóa...Trong chiến tranh có điều khiển, ai nắm được nhiều nguồn thông tin, bên đó sẽ có khả năng giành quyền chủ động trên chiến trường.
Trong điều kiện chiến tranh thông thường, đối tượng chỉ huy điều khiển của hai bên tham chiến là con người và trang bị vũ khí tạo thành các đơn vị tác chiến riêng lẻ, theo các nhiệm vụ được giao. Trong chiến tranh tương lai, hai bên tham chiến phải dựa ngày càng nhiều vào thu thập, xử lý và trao đổi thông tin. Nắm quyền chủ động về thông tin chiến trường sẽ trở thành tiêu điểm giành giật của hai bên tham chiến. Chiến tranh có điều khiển sẽ được triển khai xoay quanh khả năng thu thập, kiểm soát và xử lý thông tin – mạng thông tin, ra quyết định thực hiện nhiệm vụ.
Nhất thể hóa các biện pháp tiến công "cứng” với tiến công "mềm”. Các biện pháp tác chiến cơ bản của chiến tranh có điều khiển là sử dụng tổng hợp các đòn "tiến công mềm” và "tiến công cứng”, nhằm gây nhiễu, phá hoại và làm tê liệt hệ thống điều hành các hoạt động tác chiến của đối phương.
Tiến công "phẫu thuật ngoại khoa” nhằm thực hiện các đòn đánh mang tính lựa chọn cao nhằm đúng vào các bộ phận then chốt trong hệ thống C3I của đối phương.
Trong chiến dịch "’Bão táp sa mạc”, quân đội Mỹ đã xếp nhà máy điện của Iraq vào vị trí thứ 2 trong 12 cụm mục tiêu ưu tiên đánh trước và đã tiến hành những đòn tiến công bằng hỏa lực đường không quy mô lớn và mạnh mẽ vào đó, phá hoại nghiêm trọng các nhà máy điện, cắt đứt nguồn điện dùng cho toàn bộ hệ thống thông tin, truyền thông và chỉ huy của quân đội Iraq, khiến cho hệ thống chỉ huy tác chiến của quân đội Iraq hỗn loạn. Cách đánh này được gọi là tác chiến "phẫu thuật ngoại khoa” làm tê liệt hệ thống chỉ huy, hủy hoại toàn bộ khả năng phản ứng điều hành chiến tranh.
Tiến công mạng. Thông qua hệ thống máy tính để tiến công hệ thống C3I của đối phương. Trong chiến tranh Kosovo, đồng thời với việc dốc sức đánh trả các cuộc tiến công của NATO, Nam Tư còn mở "chiến trường thứ 2” trên mạng, thông qua mạng Internet tập kích hệ thống máy tính của NATO, làm cho một bộ phận mạng máy tính của các nước thành viên trong NATO bị rối loạn, từ đó thông tin liên lạc của quân đồng minh bị xáo trộn.
Gây nhiễu, Đánh lừa và phong tỏa thông tin, làm suy yếu và hủy hoại khả năng trực tiếp thu thập, đánh giá và trao đổi thông tin chiến trường của đối phương. Trong cuộc Chiến tranh Kosovo, cả NATO và Nam Tư đặc biệt coi trọng nhiệm vụ chế áp thông tin. Trong toàn bộ quá trình tác chiến, các bên đã sử dụng các phương thức kỹ thuật để tung vào hệ thống truyền thông khối lượng khổng lồ thông tin giả và chế áp, bảo mật nghiêm ngặt mọi nguồn thông tin.
Hệ thống C4I2 là trụ cột của chiến tranh có điều khiển. Hệ thống C4I2 là hạt nhân của chiến tranh có điều khiển. Trong Chiến tranh Kosovo, Nam Tư có 15 máy bay Mig-29, trong vòng 3 ngày đã bị NATO bắn rơi 5 chiếc.
Nguyên nhân chủ yếu là vì NATO có hệ thống C4IRS tiên tiến, có thể phát hiện kịp thời các máy bay của Nam Tư và nhanh chóng điều máy bay đến đánh chặn. Trên chiến trường hiện đại, tác dụng của các loại vũ khí hiện đại ngày càng suy giảm. Hoạt động đối kháng giữa hệ thống vũ khí với hệ thống vũ khí trang bị của đối phương đã trở thành đặc điểm quan trọng trên chiến trường kỹ thuật cao tương lai.
Chỉ có thông qua hệ thống tự động hóa chỉ huy tác chiến mới có thể liên kết các hệ thống vũ khí lại với nhau tạo thành một chỉnh thể hoàn hảo vận hành linh hoạt, phát huy triệt để hiệu quả liên kết phối hợp lớn nhất của vũ khí hiện đại.
Hệ thống C4I2 còn là hạ tầng công nghệ không thể thay thế được trong việc nắm quyền kiểm soát thông tin chiến trường và nâng cao vượt bậc khả năng phản ứng nhanh, diễn biến linh hoạt trên chiến trường. Sử dụng các phương tiện hỗ trợ ra quyết định thông minh, tự động hóa vừa có thể phát huy ưu thế của con người, lại có thể phát huy tác dụng to lớn của kỹ thuật cao, nâng cao tốc độ, chất lượng của quyết tâm chiến đấu của người chỉ huy.
Những mưu đồ chính trị và ý đồ chiến lược, chiến thuật là yếu tố nhân bội sức mạnh trong chiến tranh có điều khiển. Thực tiễn chiến tranh đã chứng minh việc triển khai các thủ đoạn và sức ép chính trị trước, triển khai binh lực sau vẫn là một chân lý phổ biến. Chiến tranh có điều khiển là cuộc "chiến tranh trí tuệ” trong chiến tranh công nghệ cao, nên việc đối kháng mưu lược trong chỉ huy càng quyết liệt và quan trọng. Các cuộc chiến tranh cục bộ vừa qua chứng tỏ mưu lược là yếu tố nhân bội sức mạnh trong chiến tranh có điều khiển.