AC-130 bắt đầu phát triển từ trong cuộc Chiến tranh Việt Nam, quân Mỹ dùng chúng để tấn công xe vận tải bộ đội Việt Nam trên đường Trường Sơn. AC-130 được sửa đổi từ máy bay vận tải C-130 nên vẫn giữ lại nhiều đặc điểm như vẻ bề ngoài, trần bay, tầm hoạt động và khả năng vận tải.
Tham chiến lần đầu trên chiến trường Việt Nam năm 1967, AC-130 đã phá hủy hàng nghìn phương tiện vận tải của bộ đội Việt Nam. AC-130 trang bị các hệ thống vũ khí tấn công mặt đất cho phép công phá các công sự, phương tiện bọc thép hạng nhẹ, xe vận tải.
AC-130 có những khẩu súng Vulcan 6 nòng cỡ 20mm có khả năng bắn 6.000 viên/phút.
Ngoài ra, AC-130 cũng được trang bị 2 khẩu pháo tự động Bofors 40mm.
Trong ảnh là AC-130 tham chiến ở Fallujah (Iraq). AC-130 bay vòng quanh chiến trường và khai hỏa từ phía bên trái.
Những khẩu pháo 40mm khi được khai hỏa đã gây nhiều thiệt hại cho phiến quân.
Bên cạnh những khẩu Bofors, về phía bên phải là pháo cỡ nòng 105mm – vũ khí mạnh nhất của AC-130.
Sau mỗi phát bắn, những khẩu pháo đều cần nạp đạn. Một kíp pháo thủ bình thường có thể bắn được 3 phát/phút, nhưng nếu là kíp pháo điêu luyện, họ có thể bắn 10 phát/phút.
AC-130 có phi hành đoàn 13 người bao gồm: phi công, pháo thủ vận hành pháo 20/40/105mm.
Hệ thống điện tử tinh vi giúp phi hành đoàn có thể quan sát chiến trường kể cả vào ban đêm.
Pháo thủ quan sát màn hình và theo dõi mục tiêu dễ dàng nhờ vào hệ thống cảm biến ảnh nhiệt.
Hệ thống cảm biến tinh vi cũng giúp pháo thủ trên AC-130 nhận diện được mục tiêu trước khi tiêu diệt.
Khi AC-130 khai hỏa, nó có thể tạo ra một vệt sáng kéo dài từ máy bay tới vị trí của đối phương.
AC-130 có tốc độ bay khá chậm khoảng 482 km/h và trần bay 9.144 m.
Do tốc độ chậm, thân hình to lớn nên AC-130 chủ yếu hoạt động về ban ngày để đối phó với hỏa lực tầm thấp của đối phương.
Dù đã ra đời từ khá lâu, nhưng AC-130 vẫn được Không quân Mỹ sử dụng nhiều cho nhiệm vụ yểm trợ hỏa lực mặt đất.