Bác sĩ Bệnh viện E báo động: "Không phải tự nhiên mà con người tìm đến cái chết..."

Ngọc Minh |

Khoa Sức khỏe Tâm thần, Bệnh viện E vừa công bố kết quả nghiên cứu mới về đặc điểm ý tưởng và hành vi tự sát ở bệnh nhân điều trị tại bệnh viện.

Tại Hội thảo khoa học kỷ niệm 58 năm thành lập Bệnh viện E, ThS.BS Nguyễn Trọng Quân (đại diện nhóm nghiên cứu*) của Khoa Sức khỏe Tâm thần đã công bố kết quả nghiên cứu mới về đặc điểm ý tưởng và hành vi tự sát ở bệnh nhân điều trị tại bệnh viện. Kết quả chỉ ra nhiều con số đáng báo động, đặc biệt là vấn để sức khỏe tâm thần ở người trẻ.

Những con số báo động

Nghiên cứu được tiến hành từ tháng 6 đến tháng 10/2025 tại các khoa lâm sàng của Bệnh viện E theo thiết kế mô tả cắt ngang. Trong số các bệnh nhân có ý tưởng và hành vi tự sát được khảo sát, 77,3% là nữ giới; nhóm tuổi 20–24 chiếm tỷ lệ cao nhất (27,3%), theo sau là nhóm tuổi 11-19 tuổi (22,7%).

Đáng chú ý, 43,9% bệnh nhân trong nghiên cứu từng có hành vi tự sát, trong đó khoảng một nửa số bệnh nhân thực hiện hành vi này lần đầu. Số còn còn lại đã thực hiện 2, thậm chí rất nhiều lần. Hành vi này thường xảy ra vào buổi tối hoặc ban đêm (48,3%), chủ yếu tại nhà (86,2%) và phương thức phổ biến nhất là sử dụng thuốc tân dược (75,9%).

Bác sĩ ghi nhận ở nhiều trường hợp, ý tưởng tự sát đã xuất hiện hơn 6 tháng trước khi bệnh nhân thực sự hành động. Các yếu tố thúc đẩy thường gặp là mất mát hoặc xung đột trong các mối quan hệ (51,5%), trong khi gia đình và người thân lại là yếu tố bảo vệ quan trọng giúp nhiều người dừng lại ý tưởng này trước khi quá muộn.

Bác sĩ Bệnh viện E báo động: "Không phải tự nhiên mà con người tìm đến cái chết..."- Ảnh 1.

Hình ảnh trong buổi hội thảo (ảnh N.M).

Vì sao người trẻ dễ bị tổn thương?

Theo bác sĩ Quân, nguyên nhân khiến độ tuổi 20–25 có tỷ lệ tự sát cao nhất xuất phát từ cả yếu tố sinh học, tâm lý và xã hội.

“Ở giai đoạn này, não bộ con người, đặc biệt là vùng vỏ não trước trán vẫn đang trong quá trình hoàn thiện. Vùng này có vai trò trung tâm trong kiểm soát cảm xúc và hành vi. Chính vì vậy, người trẻ dễ rơi vào tình trạng cảm xúc không ổn định, dễ dao động, thậm chí nhanh chóng chuyển sang trạng thái tuyệt vọng, xuất hiện các hành động mang tính xung động, mất kiểm soát”, bác sĩ Quân phân tích.

Ở thanh thiếu niên và tuổi trưởng thành sớm, nhiều bạn gặp nhiều áp lực trong cuộc sống, nhưng vẫn có thể duy trì trạng thái làm việc gần như bình thường, ít chia sẻ trạng thái tâm lý của mình với gia đình. Gia đình thường nghĩ con mình bình thường, cho đến khi xảy ra hành vi tự sát thì mới bàng hoàng, bác sĩ Quân chia sẻ.

Ngoài ra, ở tuổi 20–24, nhiều bạn trẻ bắt đầu tự lập, rời xa gia đình, đối mặt với áp lực học tập, công việc, tình cảm và các mối quan hệ xã hội. “Chính thời điểm chuyển giao sang cuộc sống người lớn khiến họ dễ stress, trong khi khả năng kiểm soát cảm xúc và phản ứng với cú sốc chưa vững vàng”, bác sĩ Quân nói.

Điển hình là trường hợp bệnh nhân nữ 22 tuổi, tới khám tại khoa Sức khỏe Tâm thần của Bệnh viện do có ý định tự sát. Trước đó một tháng, bệnh nhân đã từng tự sát bằng cách cắt tay nhưng được can thiệp kịp thời. Theo chia sẻ, nguyên nhân là do gặp một số vấn đề trong các mối quan hệ, đặc biệt là chuyện tình cảm. Sau khi được cứu, bệnh nhân rất hối hận vì không hiểu vì sao mình lại có hành vi nguy hiểm như vậy.

Tuy nhiên, vài ngày gần đây, bệnh nhân lại có ý định thôi thúc tự tử. Tại thời điểm này, gia đình vẫn không hề biết tình trạng sức khỏe của bệnh nhân. Khi bệnh nhân tới khám, bác sĩ có trao đổi tình trạng của bệnh nhân với người nhà. Lúc này, gia đình của bệnh nhân mới bàng hoàng, không nghĩ điều đó có thể xảy ra ở con mình. Theo bác sĩ Quân, bệnh nhân này chỉ là một trong số rất nhiều trường hợp trẻ có ý định và hành vi tự sát đến khám.

Dấu hiệu cảnh báo sớm

Bác sĩ Quân nhấn mạnh: Không phải tự nhiên mà con người tìm đến cái chết. Phía sau hành vi tự sát thường là một bệnh lý rối loạn tâm thần tiềm ẩn, đặc biệt là trầm cảm, rối loạn cảm xúc…”.

Các dấu hiệu cảnh báo có thể xuất hiện rất sớm nhưng thường bị bỏ qua. Ở người lớn, biểu hiện thường rõ như giảm tương tác xã hội, nói về cái chết, viết di chúc. Còn ở thanh thiếu niên, dấu hiệu tinh tế hơn gồm hay cáu gắt vô cớ, trầm buồn, dễ khóc, phát ngôn tiêu cực như “ước gì được biến mất” và đáng chú ý các hành vi tự gây đau như rạch tay, cào cấu, cắn,… Đó thường là những dấu hiệu cảnh báo cho nguy cơ xuất hiện hành vi tự sát.

Bác sĩ Bệnh viện E báo động: "Không phải tự nhiên mà con người tìm đến cái chết..."- Ảnh 2.

Bác sĩ Quân chia sẻ kết quả của nghiên cứu (ảnh: N.M).

“Điều đáng sợ là nhiều người xung quanh nghĩ đó chỉ là lời nói vu vơ, nhưng thực tế có thể là lời cầu cứu cuối cùng”, bác sĩ Quân nói.

Tổ chức Y tế Thế giới ước tính, tự sát là nguyên nhân tử vong đứng thứ ba ở nhóm tuổi 15–29 trên toàn thế giới. Việt Nam tuy chưa có thống kê toàn diện, nhưng các bệnh viện tuyến trung ương cho thấy số ca có hành vi hoặc ý tưởng tự sát đang tăng rõ rệt trong 5 năm gần đây.

Theo bác sĩ Quân, thuyết phục người có ý tưởng tự sát đi khám là việc rất khó. Nhiều bạn phủ nhận, giấu kín hoặc sợ bị kỳ thị là “tâm thần”. Khi đó, việc giải thích cho bệnh nhân hiểu tình trạng sức khỏe của mình là rất quan trọng. Bệnh nhân có thể được hỗ trợ điều trị các tình trạng sức khỏe đi kèm gây ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống như ăn không ngon miệng, ngủ kém, không tập trung học tập làm việc

Với những trường hợp nguy cơ cao từng có hành vi tự sát hoặc không kiểm soát được hành vi, bác sĩ cho biết có thể phải áp dụng can thiệp bắt buộc để đảm bảo an toàn, thậm chí cần sự phối hợp chặt chẽ giữa gia đình, nhân viên y tế và cơ quan chức năng để bảo vệ người bệnh.

Trong giai đoạn đầu điều trị, việc giám sát liên tục, ổn định cảm xúc và kiểm soát hành vi là ưu tiên hàng đầu. Bệnh nhân sẽ được dùng thuốc phù hợp (chống trầm cảm, ổn định khí sắc, giảm lo âu…) kết hợp với liệu pháp tâm lý cá nhân hoặc nhóm nhằm giúp họ nhận diện cảm xúc, học kỹ năng ứng phó và khôi phục niềm tin sống.

Khi truyền thông vô tình làm tổn thương người trẻ

Bác sĩ Quân cho rằng, truyền thông và bình luận tiêu cực trên mạng xã hội có thể vô tình làm tổn thương những người đang trong khủng hoảng tâm lý.

“Mạng xã hội tràn ngập những lời phán xét, mỉa mai hay chỉ trích, điều đó không giúp phòng ngừa mà ngược lại, có thể khiến người đang tuyệt vọng cảm thấy cô lập và bị dồn vào bế tắc hơn”, bác sĩ Quân nói.

Bác sĩ nhấn mạnh, điều người đang khủng hoảng cần nhất là sự lắng nghe, cảm thông và kết nối, không phải phán xét hay đổ lỗi.

Tự sát là một vấn đề sức khỏe tâm thần nghiêm trọng, không phải là hành vi bộc phát đơn thuần. Điều quan trọng là gia đình, nhà trường và xã hội cần học cách nhận biết và phản ứng đúng với các tín hiệu nguy cơ. Nếu thấy người thân thay đổi cảm xúc thất thường, thu mình, phát ngôn tiêu cực hoặc từng có hành vi gây hại cho bản thân, cần trò chuyện cởi mở, không phán xét, và chủ động đưa đi khám chuyên khoa tâm thần hoặc tư vấn tâm lý.

“Tự sát không phải là sự yếu đuối, mà là dấu hiệu của nỗi đau tâm lý vượt ngưỡng chịu đựng. Việc hiểu, lắng nghe và đồng hành cùng người trẻ trong khủng hoảng cảm xúc không chỉ là trách nhiệm của ngành y tế mà còn của mỗi gia đình và toàn xã hội”, bác sĩ Quân nhắn nhủ.

*Nhóm nghiên cứu bao gồm: ThS.BS Nguyễn Viết Chung; ThS.BS Nguyễn Trọng Quân; ThS.BS Vũ Bích Phượng; ThS.BS Phạm Xuân Hiếu; ThS.BS Nguyễn Ngọc Hải.

Đường dây nóng: 0943 113 999

Soha
Báo lỗi cho Soha

*Vui lòng nhập đủ thông tin email hoặc số điện thoại