Theo dự kiến hôm nay 30-3, TAND tỉnh Lâm Đồng sẽ mở phiên xử sơ thẩm lần hai vụ Nguyễn Văn Đức (Việt kiều Pháp, sống tại TP Bảo Lộc) bị truy tố về tội giao cấu với trẻ em.
Suốt quá trình tố tụng trước đó ông Đức có nhiều đơn gửi cơ quan chức năng cho rằng mình bị truy tố xét xử oan. Bởi ông đã 68 tuổi, bị bệnh tiểu đường, đặc biệt là bị liệt dương, không có khả năng quan hệ tình dục.
Theo hồ sơ, ông Đức là chủ doanh nghiệp kinh doanh sinh vật cảnh và trang trại sinh thái. Bà L. là công nhân làm việc và sống tại trang trại nên vào ngày cuối tuần con gái bà L. là cháu H. (sinh tháng 5-1998) thường vào chơi.
Đến cuối năm 2011 thì H. vào trang trại ở luôn với mẹ. Theo H., từ đầu tháng 9-2013 ông Đức đã có hành vi quan hệ tình dục với mình, H. có kể cho chị cùng cha khác mẹ nghe.
Thấy có biểu hiện khác thường nên người chị này đưa H. đi khám và phát hiện H. có thai. Ngày 26-11-2013, cha ruột cháu H. và điều tra viên đưa H. tới BV để bỏ thai và thu giữ mẫu thai nhi để đi giám định.
Kết quả giám định của Viện Khoa học hình sự, Bộ Công an cho thấy ông Đức là cha của bào thai. Sau đó ông Đức yêu cầu giám định lại.
Tại kết luận giám định ngày 15-10-2014 của Viện Pháp y quân đội kết luận: “Chất lỏng màu nâu đen đựng trong ống 245/LĐ máu, mô thai có ADN của ít nhất hai người, không có mẫu thai nhi nên không đủ căn cứ kết luận yêu cầu giám định”.
Tháng 3-2015, TAND tỉnh Lâm Đồng đã xử sơ thẩm tuyên phạt ông Đức năm năm tù về tội giao cấu với trẻ em. Ông Đức kháng cáo kêu oan.
Cùng năm 2015, TAND Tối cao tại TP.HCM xử phúc thẩm tuyên hủy án sơ thẩm để điều tra, xét xử lại vì có nhiều sai sót, vi phạm tố tụng, chưa đủ căn cứ buộc tội và có dấu hiệu lọt tội phạm.
Theo tòa phúc thẩm, cha cháu H. là người giám hộ cho cháu là không đúng vì người mẹ (tức bà L.) mới là người trực tiếp nuôi dưỡng H., có địa chỉ rõ ràng và có mặt tại địa phương.
Khi đưa cháu H. đi phá thai, công an không hỏi ý kiến bà L. và bà cũng không có mặt khi lấy lời khai cháu H…
Về chứng cứ, ngoài lời khai của cháu H. và người chị thì chứng cứ duy nhất được cấp sơ thẩm dùng để kết tội là kết luận giám định đối với thai nhi. Nhưng lời khai của cháu H. và người chị mâu thuẫn nhau.
Cháu H. khai quan hệ với bị cáo từ năm 2008 đến 2013 nhưng người chị khai nghe H. kể bắt đầu quan hệ từ đầu năm 2013.
Trong khi kết quả giám định chưa bảo đảm vì có lập biên bản thu giữ mẫu mô thai nhi nhưng trong hồ sơ không có biên bản niêm phong, mở niêm phong, trái với quy định Điều 75 BLTTHS về thu thập và bảo quản vật chứng.
Cạnh đó, mẫu giám định được đưa đi giám định hai lần cho ra hai kết quả khác nhau…
Bị cáo Đức khai bị nhiều bệnh, bị liệt dương và yêu cầu được đưa đi khám chuyên môn.
Thế nhưng cơ quan điều tra không đáp ứng để làm rõ người bị tiểu đường, mới mổ tim có khả năng quan hệ tình dục liên tục ngày hai lần như bị hại khai hay không. Bà L. khai cháu H. có nhiều mối quan hệ phức tạp, thường bỏ nhà theo bạn trai.
Bà còn khẳng định bị cáo không quan hệ tình dục với H. nhưng do H. bị người khác xúi giục nên vu oan cho bị cáo Đức. Nhưng cơ quan điều tra không đi sâu làm rõ những tình tiết này, VKS cũng không yêu cầu làm rõ là có thiếu sót.
Cháu H. thừa nhận vào năm 2012 có quan hệ tình dục với bạn trai là T., phù hợp với lời khai của bà L. Nhưng cấp cơ thẩm không làm rõ đối tượng này là ai, có quan hệ tình dục với bị hại không, quan hệ vào thời gian nào là có dấu hiệu bỏ lọt tội phạm.