Giáo sư David Paterson tại Trường Y tế Cộng đồng Saw Swee Hock (Singapore) cho biết tại các quốc gia có thu nhập thấp đến trung bình trong đại dịch COVID-19, cứ 4 trường hợp tử vong ở bệnh nhân nặng đã nằm trong phòng chăm sóc đặc biệt (ICU) từ 5 ngày trở lên thì có 1 trường hợp tử vong do AMR. Tại châu Á, trong năm 2019 có gần một nửa trong số 5 triệu ca tử vong do kháng thuốc kháng sinh .
"Vấn đề này cũng tồn tại ở các nước giàu nhưng ở mức độ thấp hơn" - tờ The Straits Times dẫn lời giáo sư David Paterson nhấn mạnh.
Giáo sư Paterson cho biết thêm: "Khi carbapenem (một loại kháng sinh mạnh chuyên trị các bệnh truyền nhiễm do vi khuẩn đa kháng thuốc) không có tác dụng, chúng ta sẽ rơi vào tình thế thực sự khó khăn".
Đánh giá về tác hại của việc kháng thuốc kháng sinh, giáo sư Kenneth Mak, giám đốc dịch vụ y tế Singapore, mô tả AMR là "một đại dịch bùng phát chậm".
"Tác động của AMR đối với các hệ thống chăm sóc sức khỏe và cộng đồng rất sâu sắc. Việc kháng thuốc kháng sinh dẫn đến kết quả bệnh nhân kém hơn và khó điều trị hơn. Điều này cũng khiến thời gian nằm viện của người bệnh lâu hơn và chi phí chăm sóc sức khỏe tổng thể cũng cao hơn" - giáo sư Kenneth Mak chia sẻ.
Giáo sư Mak còn cho biết đại dịch COVID-19 đã chỉ ra rằng các bệnh truyền nhiễm, bao gồm cả mối đe dọa của AMR "dễ dàng vượt qua biên giới trong thế giới kết nối cao ngày nay".
Ông nói thêm mầm bệnh truyền nhiễm có thể xuất hiện ở một nơi và bám trên người, động vật và các vật trung gian truyền bệnh khác như thực phẩm và bề mặt. Vi khuẩn truyền bệnh do đó sẽ "đậu" ở một nơi rất xa so với nguồn ban đầu của nó và tiếp tục lây lan.
"Một đợt bùng phát có thể được gieo mầm theo cách như vậy. Khi các phát triển khoa học chưa bắt kịp với mầm bệnh mới và đang nổi lên thì đó là lúc dịch bệnh và đại dịch có thể xảy ra" - giáo sư Mak nhấn mạnh.
Hậu quả của việc kháng thuốc kháng sinh vô cùng lớn đối với ngành chăm sóc sức khoẻ. Ảnh minh hoạ: UNSPLASH
Các chuyên gia cho rằng trong tình huống xấu nhất khi xảy ra tình trạng AMR buộc các bác sĩ phải quay trở lại sử dụng một loại kháng sinh rất cũ có tên colistin. Loại kháng sinh này các bác sĩ bệnh truyền nhiễm đã ngừng sử dụng trong khoảng 40 năm vì độc tính cao, thường gây ra các vấn đề về thận và thần kinh.
Vi khuẩn không có khả năng kháng colistin vì nó đã không được sử dụng trong nhiều thập kỷ. Nhưng độc tính cao làm cho nó trở thành một loại thuốc cuối cùng mà các bác sĩ không muốn sử dụng.
Trong bối cảnh đó các chuyên gia nhấn mạnh sự cấp thiết phải tạo ra những loại thuốc kháng sinh mới.
"Chúng tôi rất cần các giải pháp thay thế. Đó là ưu tiên số 1 của chúng tôi đối với các thử nghiệm thay thế cho colistin" - Giáo sư Paterson nói - "Hiện tại, đã có rất nhiều thực thể muốn thực hiện các dự án với chúng tôi và điều đó thật tuyệt vời".