Trong hơn ba thập kỷ qua, Việt Nam đã chuyển đổi mạnh mẽ từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế định hướng thị trường. Từ nền kinh tế đóng và thay thế nhập khẩu, Việt Nam đã trở thành một trong những nền kinh tế có độ mở lớn nhất và định hướng xuất khẩu trên thế giới. Việt Nam đã chuyển từ nền kinh tế thu nhập thấp dựa vào nông nghiệp sang nền kinh tế công nghiệp hóa mới với thu nhập trung bình thấp.
Theo đánh giá chung của nhiều chuyên gia và nhà nghiên cứu kinh tế, giai đoạn 2024-2030 là giai đoạn quyết định để Việt Nam chuyển mình thành một nước công nghiệp theo tinh thần của Chiến lược phát triển kinh tế xã hội của Việt Nam giai đoạn 2021-2030.
Trong bối cảnh đó Trường đại học Kinh tế quốc dân tổ chức Tọa đàm Đối thoại Chính sách quý 1 năm 2024 với chủ đề "30 năm phát triển của Việt Nam: Nhìn lại quá khứ và ứng phó với thách thức mới".
Phát biểu tại Toạ đàm, GS. Ngô Thắng Lợi cho biết, Việt Nam luôn định hướng các mục tiêu phát triển xã hội ở mức khá cao và luôn hoàn thành vượt mức trong suốt 30 năm qua.
Cụ thể, ông Lợi cho biết, trong 30 năm vừa qua, Việt Nam đã vượt được 2/3 cửa ải. Đầu tiên, Việt Nam đã vượt qua được vấn đề an ninh lương thực trong giai đoạn 1991-2000. Cửa ải thứ hai, theo ông Lợi, đó là Việt Nam đã thoát khỏi danh sách các nước có thu nhập trung bình thấp. Còn lại, mục tiêu thách thức thứ ba chưa vượt qua được là trở thành nước công nghiệp vào năm 2020.
"Việt Nam đã cơ bản xây dựng được tiền đề của một nước công nghiệp", GS. Ngô Thắng Lợi đánh giá.
Tuy nhiên, quá trình phát triển của Việt Nam cũng bộc lộ nhiều bất cập khi tăng trưởng đang có dấu hiệu "hụt hơi" theo thời gian. Biên độ tăng trưởng đang có xu hướng giảm và chưa đủ mạnh để tạo ra những đột phá trong thực hiện tiến bộ xã hội.
Chất lượng tăng trưởng cải thiện chậm dần (hiệu quả đầu tư, năng suất lao động), nhất là những năm gần đây và ở mức khá thấp so với các nước từng ở cùng thời kỳ như Việt Nam (Hàn Quốc, Nhật Bản…), làm giảm khả năng gia tăng thu nhập của nền kinh tế.
Mặc dù kinh tế Việt Nam thời gian qua tăng trưởng cao, nhưng theo đánh giá của ông Lợi, quá trình phát triển của Việt Nam cũng bộc lộ nhiều bất cập khi tăng trưởng đang có dấu hiệu "hụt hơi" theo thời gian. Biên độ tăng trưởng đang có xu hướng giảm và chưa đủ mạnh để tạo ra những đột phá trong thực hiện tiến bộ xã hội.
Chất lượng tăng trưởng cải thiện chậm dần (hiệu quả đầu tư, năng suất lao động), nhất là những năm gần đây và ở mức khá thấp so với các nước từng ở cùng thời kỳ như Việt Nam (Hàn Quốc, Nhật Bản…), làm giảm khả năng gia tăng thu nhập của nền kinh tế.
Con đường lý tưởng cho tương lai kinh tế Việt Nam
Theo GS. Trần Văn Thọ, Đại học Waseda, Tokyo, Với 30 năm đổi mới và phát triển, kinh tế Việt Nam tăng trưởng khả quan. Việt Nam chuyển từ một nước nghèo sang một nước có thu nhập trung bình thấp vào năm 2008 và hiện nay đang tiến gần đến mức thu nhập trung bình cao. GNI đầu người của Việt Nam vào năm 2022 là 3,939 USD.
"Việt Nam có lẽ sẽ đạt mức thu nhập trung bình cao (hơn 4,300 USD) vào giữa thập niên 2020", GS. Trần Văn Thọ cho hay.
Tuy nhiên, theo GS. Trần Văn Thọ, để vươn lên từ mức thu nhập trung bình cao đến mức thu nhập cao vào năm 2045, tránh được bẫy thu nhập trung bình và tiếp tục phát triển bền vững trong hai thập niên tới, Việt Nam cần đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu để tăng năng suất. Chính thức hóa khu vực phi chính thức và tăng qui mô doanh nghiệp để đẩy mạnh tích lũy tư bản và cách tân công nghệ (đổi mới sáng tạo).
"Kết quả là tích lũy tư bản sẽ được tăng cường, mở rộng theo hướng hiệu suất và kích thích sử dụng công nghệ", ông Thọ nhận định.
Đồng thời, Việt Nam cũng cần cải cách và phát triển thị trường các yếu tố sản xuất để việc phân bổ nguồn lực có hiệu quả và đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu; cũng như chú trọng cung cấp lao động có kỹ năng và khuyến khích hoạt động R&D để thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu.
GS. Trần Văn Thọ đánh giá, trong khoảng một thập niên tới, mở rộng công nghiệp hóa, chuyển dịch cơ cấu công nghiệp và cải cách thể chế để phân bổ hiệu suất các nguồn lực là các yếu tố tăng năng suất cho Việt Nam. Đồng thời Việt Nam cần chuẩn bị cho thời đại tăng trưởng dựa trên đổi mới sáng tạo cho thập niên 2030 và xa hơn.
Trong bối cảnh toàn cầu hóa, sự chuyển hoán cơ cấu và liên tục tăng năng suất sẽ làm cho Việt Nam cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Đây là điều kiện để Việt Nam tránh được vị trí "bánh sandwich" - không cạnh tranh được với nước đi sau có chi phí sản xuất rẻ hơn, cũng như chưa cạnh tranh được với nước đi trước.