Qua thăm khám, bác sĩ phát hiện bên cạnh những tổn thương điển hình của bệnh vảy nến. Bệnh nhân có các tổn thương sẩn dày sừng đặc trưng của ngộ độc arsen mạn tính, và tổn thương thành bụng nghi ngờ ung thư da . Kết quả giải phẫu bệnh khẳng định bệnh nhân mắc ung thư biểu mô vảy biệt hóa tốt.
Hỏi kĩ tiền sử bệnh nhân không điều trị bệnh vảy nến tại cơ sở y tế thường xuyên và tự điều trị bằng thuốc đông y dạng viên hoàn nhiều năm nay. Ngoài ra gia đình bệnh nhân sử dụng nước máy, không có yếu tố nghề nghiệp tiếp xúc với arsen.
Theo BSCKII. Đào Hữu Ghi – Trưởng khoa Điều trị bệnh da nam giới, BV Da liễu Trung ương cho biết, có thể bệnh nhân bị ngộ độc arsen mạn tính do sử dụng thuốc đông y để điều trị bệnh vảy nến.
Sẩn dày sừng màu nâu vùng ngực.
Tổn thương ung thư biểu mô vảy vùng thành bụng.
Arsen là 1 kim loại nặng đã được sử dụng trong điều trị vảy nến từ rất lâu nhưng vì các nghiên cứu cho thấy tính độc hại của nó, nên hiện không được sử dụng. Tuy nhiên, một số loại thuốc đông y không rõ nguồn gốc hiện vẫn có sử dụng arsen trong thành phần, do đó có thể gây độc cho bệnh nhân - BS. Ghi cho hay.
Theo các bác sĩ da liễu, bệnh vảy nến là một bệnh mạn tính, có thể bùng phát từng đợt, bệnh có thể duy trì ổn định nếu bệnh nhân thăm khám thường xuyên và tuân thủ theo điều trị của bác sĩ và có chế độ sinh hoạt lành mạnh.
Một số bệnh nhân với tâm lí có bệnh thì vái tứ phương, đã sử dụng rất nhiều loại thuốc không rõ thành phần, nguồn gốc khiến bệnh không những không khỏi mà còn chịu nhiều tác dụng phụ nguy hiểm khác. Để tránh những biến chứng đáng tiếc có thể xảy ra, người bệnh nên đến cơ sở y tế chuyên khoa để được khám, tư vấn và điều trị đầy đủ.
PGS.TS Lê Hữu Doanh – Phó Giám đốc BV Da liễu Trung ương cho biết, ước tính có khoảng 2-3% dân số thế giới mắc bệnh vảy nến. Ở Việt Nam tuy chưa có số liệu điều tra chính xác nhưng theo ước tính có từ 1,5-2% dân số mắc bệnh vảy nến.
Theo PGS. Doanh, bệnh vảy nến thường xuất hiện ở tuổi ngoài 20, có thể gặp ở người lớn tuổi ngoài 50, đôi khi ở trẻ nhỏ dưới 10 tuổi và nếu ở tuổi này thì thường có yếu tố gia đình với biểu hiện bệnh nặng hơn, kéo dài hơn. Tỷ lệ bệnh ở nam và nữ như nhau.
Cơ chế sinh bệnh vảy nến bao gồm yếu tố gen di truyền, rối loạn yếu tố miễn dịch, và các yếu tố từ môi trường. Yếu tố di truyền, nếu bố hoặc mẹ bị bệnh thì có khoảng 8% con bị bệnh, nếu cả bố và mẹ bị bệnh thì tới 41% con mắc bệnh. Các yếu tố khác như nhiễm khuẩn, chấn thương, thuốc, thức ăn.
Ngoài ra, các yếu tố có thể làm bệnh nặng hơn là các sang chấn như gãi, chà sát mạnh. Nhiễm trùng mà thường là nhiễm liên cầu. Các stress tâm lý , sử dụng thuốc corticosteroid, lithium, các thuốc chống sốt rét, interferon... có thể làm nặng bệnh. Rượu cũng là tác nhân làm cho bệnh nặng lên.
"Bệnh vảy nến không gây chết người nhưng ảnh hưởng rất nhiều đến tâm lý và chất lượng cuộc sống của người bệnh. Đây là một bệnh mạn tính, diễn biến bệnh lâu dài, có thể khỏi một thời gian dài nhưng cũng có nhiều trường hợp tái phát liên tục. Do đó, việc điều trị cần phải có sự phối hợp rất chặt chẽ giữa thầy thuốc và người bệnh để có thể tìm ra phương pháp điều trị tối ưu, hiệu quả, ít tác dụng phụ và phù hợp với hoàn cảnh người bệnh về kinh tế, công việc và gia đình, xã hội"- chuyên gia da liễu cho hay.
Tại BV Da liễu Trung ương là bệnh viện chuyên khoa đầu ngành về da liễu trong cả nước, BV hiện đang quản lý rất nhiều bệnh nhân vảy nến và ứng dụng nhiều biện pháp điều trị hiệu quả hiện nay, nâng cao chất lượng sống cho người bệnh.