Đêm gác căng thẳng
Tiểu đoàn 4 chúng tôi chiếm lĩnh phum dừa cụt, với nhiệm vụ củng cố đơn vị, giữ bí mật lực lượng, làm bàn đạp đợi trung đoàn tập kết, chuẩn bị một trận luồn sâu cấp chiến dịch.Một đêm quãng nửa ca gác, tôi phát hiện con chó dưới ánh trăng, lớn khoảng 15 kg đang chạy dọc đường bò xuyên vào gần đội hình.
Cách hầm gác khoảng hơn chục mét, nó dừng lại đánh hơi quan sát. Có lẽ do xuôi gió nên nó không phát hiện ra tôi. Ở đất này, tôi từng thấy voi trắng, bò trắng với rất nhiều chó trắng, nhưng trắng tinh như con này thì chưa thấy bao giờ.
Dưới ánh trăng, nó trắng lóa như bông nõn. Nhẹ nhàng khẽ kéo nấc an toàn xuống, tôi ướm nó vào đường ngắm, phân vân chưa bắn. Nó dừng lại hít hít một lát rồi lộn trở lại. Thú hoang không bao giờ quay lại vết đi cũ. Biết chạy trở lại đường cũ hẳn con chó này có người nuôi.
Xuân Tùng (bút danh Trung Sỹ) - Nguyên trung sỹ D4E2F9, Quân đoàn 4 tham gia Chiến tranh Biên giới Tây Nam bảo vệ Tổ quốc và là Quân tình nguyện Việt Nam ở Campuchia, tác giả cuốn Hồi ức Chuyện lính Tây Nam, NXB Thanh Niên.
Linh cảm dội lên, đó có thể là chó trinh sát địch. Tôi luồn về võng Sơn con, trung đội trưởng trinh sát lay dậy. Anh Sơn vơ khẩu M.79 cùng dây đạn. Hai anh em trở ra hầm gác đôi. Lúc sau nữa có tiếng lá khô loạt soạt rất khẽ, rất đều càng lúc càng gần.
Ánh trăng lổ đổ từng khoảng sáng trong bóng rừng thưa, căng hết mắt không phát hiện ra cái gì.
Cửa hầm chữ U bên kia, thấy anh Sơn hất hàm chỉ vào khẩu M.79 ra hiệu tao bắn trước. Cái máy điện thoại Mỹ trong lều chỉ huy để nấc chuông nhỏ, bỗng nhiên kêu cạch cạch như dế gáy.
Kêu mấy hồi nhỏ nhưng đêm thanh nghe rất rõ tiếng. Trời đất! Ai đó không ngủ được, lại thử máy vào đúng lúc này. Tôi nín thở chờ phát B.40 đầu nòng từ phía địch.
Có tiếng "bịch", tiếng một hòn đất hay vật cứng lăn tới gần miệng hầm... Im lặng! Lại "bịch" một tiếng nữa...
Tôi hơi thụt đầu xuống, tay đổ mồ hôi trên cò súng lạnh ngắt vì căng thẳng. Anh Sơn quờ tay, lượm đại một cục đất, chọi về phía trước, nghe cũng "bịch" một tiếng.
Bà mẹ Campuchia rót nước cho các chiến sĩ Quân tình nguyện Việt Nam.
Phía trước lại lặng ngắt. Cái hầm gác nằm trong bóng thẫm của lùm cây nên nó khó phát hiện. Tay tôi run, chỉ rình địch loé lửa đầu nòng là siết cò đại. Nhưng chờ mãi không thấy gì thêm ngoài sự yên lặng hoàn toàn. Đêm mùa khô lạnh, nhưng đầu và lưng áo tôi lúc đó đẫm mồ hôi.
Cả đêm hôm ấy, trung đội trinh sát và tôi gần như thức suốt. Sáng hôm sau chúng tôi bám lên, nhặt được nắm cơm chuột khoét nham nhở bọc trong giỏ lá thốt nốt. Đêm qua trinh sát địch đã mò vào giỡn chơi với chúng tôi.
Hai kẻ thù đã thăm dò, có thể đã biết vị trí của nhau nhưng không bên nào động thủ. Bí mật lực lượng vẫn được giữ nguyên.
Lùa địch vào rọ, cất một mẻ lớn
Sau một tuần củng cố, sư đoàn chuẩn bị chiến dịch đánh thông lên thị trấn Leach theo thung lũng phía tây rặng núi Aoral.
Trung đoàn 2 chúng tôi được lệnh bí mật vượt núi, chẹn ngang thung lũng như cái đăng chắn cá để các đơn vị bạn lùa địch vào đấy cất một mẻ lớn. Aoral (Đậu Khấu, U răng như lính hay gọi) là dãy núi cao nhất Campuchia, nằm theo hướng tây bắc – đông nam, có những đỉnh độ cao tuyệt đối đạt hơn 1500m.
Mệnh lệnh rõ ràng, quán triệt đến từng chiến sĩ: Bí mật bất ngờ, tránh các đơn vị nhỏ lẻ của địch, mang đầy đủ lương thực súng đạn tác chiến trong 6 ngày, nhất là đồ đựng nước uống.
Chuẩn bị tư tưởng, hậu cần xong xuôi, trung đoàn lục tục lên đường. Bốn giờ sáng, tiểu đoàn 4 đi đầu đội hình theo con đường nhỏ ngược về hướng bắc. Cấm dùng thông tin vô tuyến, cấm bắn bắt liên lạc. Tảng sáng có lệnh dừng lại.
Lực lượng vũ trang cách mạng Campuchia và Bộ đội tình nguyện Việt Nam phối hợp tập luyện nâng cao kỹ thuật chiến đấu.(Ảnh: TTXVN)
Trinh sát phát hiện khói bay lên trong phum. Đơn vị im lặng dạt vào rừng tránh địch, cắt lối khác áp vào triền núi.Bắt đầu leo dốc khoảng 8h sáng. Hai ba trăm mét độ cao khởi đầu buổi sáng còn ngon, nhưng càng lên cao càng khó đi. Rừng hỗn hợp nguyên sinh trên núi chằng chịt dây leo.
Tầng cây cao khép tán, toả bóng thâm u che phủ. Đã hơn 9h sáng mà đáy rừng vẫn nhờ nhờ tối. Những cây con bên dưới bị cớm nắng, thân mảnh ngoi lên thẳng đuột ken dày như thành. Tôi cũng biết phải giữ hơi đều, hít sâu và thở ra từ từ.
Đến khoảng gần trưa, mớ kiến thức dưỡng sinh ấy trở thành vô dụng. Mũi, mồm và tai cùng thi nhau hoạt động hết công suất. Đi sau còn oải thế, mới biết tổ trinh sát đi đầu phạt cây mở đường lên gian khổ đến mức nào.
Cắm cúi leo. Khoảng tiếp xúc giữa ba lô và lưng áo đã ướt đẫm mồ hôi. Ruột tượng 5 kg gạo quàng quanh cổ cũng ướt nốt phần đáy. Quai máy, quai súng siết vào vai tê dại. Vẫn chưa có lệnh nghỉ. Đi! Đi cho kịp giờ hiệp đồng. Lính trung đoàn im lặng giữ hơi, khoanh tay trước bụng còng lưng vượt dốc.
Quá trưa nghỉ ăn cơm. Sau một lát lại leo tiếp. Rừng ở độ cao lớn quang hơn nhưng độ dốc lớn hơn. Bắt đầu có mây mù dưới thung lũng bốc lên. Trời tự nhiên tối lại. Những hạt nước li ti dày đặc làm triền dốc trơn nhẫy.
Khổ nhất là lính pháo DK.75mm đại đội 17 trung đoàn. Khẩu đội trưởng đi trước, dùng xẻng pháo đào khoét triền núi thành từng bậc cho bọn khiêng pháo phía sau có chỗ đặt chân. Hai người khiêng nòng, hai đoạn tầm vông oằn vai dưới sức nặng nòng thép. Pháo thủ trầy trượt bám sườn dốc leo lên.
Lính vác đạn buộc hai ống néo làm một, cúi đầu gằn bước. Thỉnh thoảng người khiêng trượt chân, nòng pháo lăn lông lốc, mắc lại gốc cây xa tít bên dưới. Khẩu đội câm lặng quay xuống, nhẫn nại kéo lên không than một tiếng.
Quân tình nguyện Việt Nam chiến đấu ở Campuchia.
Đại đội 16 cối 120mm còn nhục nhằn hơn nữa. Bốn người lặc lè khiêng hai cái đòn xỏ chữ thập buộc néo nâng bàn đế, như người ta khiêng một con rùa khổng lồ. Đường rộng đã khó, đường hẹp phải có một người phát cây dọn cho đòn khiêng khỏi vướng.
Cái đòn chữ thập lúc mở ra, lúc khép vào kèn kẹt theo độ mở địa hình hướng đi. Chiếc bàn đế cối nặng, trượt rê mặt núi ướt, ủi tung cả đất. Những đoạn quá dốc, anh em tròng dây kéo nòng cối lẫn đế cối trượt trên dốc trơn, gân cổ bạnh ra. Sức lực và ý chí con người đã đạt đến giới hạn Max vô biên.
Sức tôi không bền. Để đại đội DK.75mm của trung đoàn vượt qua là tôi đã bị tụt lại sau tiểu đoàn khá xa rồi. Hai người một máy, hai cuộn dây gần 500m, một khẩu súng, hai ba lô, hai ruột tượng 10 ký gạo.
Anh Ky đi cùng tôi không giục không nhắc, lùi lũi đi đằng sau. Khi các đơn vị khác nghỉ, chúng tôi vẫn cứ cắm cúi bước để theo kịp tiểu đoàn.
Trời sâm sẩm tối gần lên tới đỉnh. Một hơi gió tạt qua mát lạnh, gió sườn tây núi Aoral thổi từ vịnh Thái Lan, nghĩa là sắp đổ dốc xuống núi. Trời bắt đầu mưa lất phất. Thật lạ lùng! Mới bên kia cách mấy trăm mét khí hậu khô rang nóng kinh người. Vừa sang sườn bên này thời tiết quay ngược 180 độ.
Lần đầu tiên tôi biết thế nào là mưa địa hình. Bây giờ đọc thêm mới biết hiện tượng địa lý ấy gọi tên là thế chứ lúc đấy đã biết gì. Chỉ biết là rất mệt, mệt đến há hốc mồm.Giở nắm cơm vắt ra, nó đã nhoe nhoét phần bên ngoài. Tôi bẻ đôi, cạp cạp mấy miếng phần lõi rồi lẳng vào bụi.
Phản xạ nhai nuốt vắt cơm với lý trí để nạp thêm năng lượng chứ tôi không hề thấy đói. Không phải cảm giác mệt nữa, phải nói là cảm giác tuyệt vọng đang trào lên, dần chế ngự con người khi nghĩ rằng đang đi lạc. Lạc đơn vị trong rừng thẳm núi này chắc chắn chỉ làm mồi cho hổ.
Đêm tối mịt mùng. Lính DK82 rạch ống bảo quản đốt soi dấu đường. Nhựa cháy xèo xèo, rỏ lụp bụp những giọt lửa xanh lét xuống giày bỏng rẫy. Mừng vì đã gặp lại đơn vị, chúng tôi bước dấn chân. Đi một lúc nữa, tôi về tới đội hình tiểu đoàn đang chuẩn bị nghỉ đêm.
Chân núi chỉ còn một đoạn ngắn. Võng lính chăng ngang dọc hỗn loạn cản trở đường đi. Tôi cũng tìm vội hai cái cây mắc đại tấm võng chùng, leo lên ngủ ngay tắp lự. Khi đó đêm đã gần về sáng.
Như đánh hơi được sự săn đuổi, quân Kh’mer Đỏ bắt đầu rút chạy.
Phía thung lũng dưới núi, tiếng động cơ ô tô, xe xích rộ lên vọng lại ầm ì. Nhìn rõ loáng thoáng những vệt đèn pha trong sương đục. DK.75mm và pháo 105mm của địch bắt đầu bắn lên núi. Chúng bắn thăm dò kiểu mù, đạn rơi cách chúng tôi rất xa.
Tiểu đoàn lệnh 2W lên máy, để lại toàn bộ ba lô cho bộ phận thu gom quân lạc đường trông, còn tất cả các đại đội lao xuống núi truy kích địch. Lúc bắt đầu vận động, toàn thân đau điếng cứng đơ, tưởng chừng không cất mình lên nổi. Được một quãng thể trạng tôi ổn định dần dần. Trời mờ sáng.
Lội qua một suối nước tù sâu hoắm nước lạnh căm căm, chúng tôi tràn lên một cái trảng rộng. Giữa trảng vạch ngang con đường đất rộng rãi đầy vết xe cơ giới.
Bên kia trảng, một dãy nhà thấp lợp tranh nằm lẫn những chiếc xe vận tải, máy cẩu, máy ủi màu vàng choé. Nơi đó có một cây xoài độc lập rất lớn.
Bộ binh dàn hàng ngang tiến lên. Các đại đội nổ súng thị uy thét xung phong. Cối và DK tiểu đoàn bắn đón theo hướng con đường chạy dọc thung lũng. Không có tiếng súng bắn trả từ phía địch. Bị đánh bất ngờ, chúng đang chạy chí chết.
Tiểu đoàn 4 thu một bãi pháo 105mm, một khẩu DK.75mm và một số lô đạn cối 82mm. Toàn bộ số xe máy công trình địch bỏ lại toàn đồ KOMATSU Nhật Bản. Riêng lố đạn cối 82 nhãn Made in China, trung đoàn ra lệnh gom huỷ ngay, bởi nhiều những lô đạn loại này bị gài đầu nổ tức thì ngay chỗ liều phóng ở đuôi đạn.
Chúng tôi được nghỉ xả hơi một ngày, chờ công binh, vận tải sư đoàn lên thu hồi chiến lợi phẩm.