Chiến thắng Đường 9 - Nam Lào 1971 và bài học vận dụng trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc hiện nay

TTXVN/Báo Tin tức |

Mùa Xuân năm 1971, quân dân Việt Nam phối hợp chặt chẽ với nhân dân các bộ tộc và lực lượng vũ trang cách mạng Lào tổ chức thực hiện thắng lợi chiến dịch phản công Đường 9 - Nam Lào, mở ra bước ngoặt phát triển mới cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc ba nước Đông Dương.

Nhân dịp kỷ niệm 50 năm sự kiện lịch sử trọng đại này, Thông tấn xã Việt Nam (TTXVN) trân trọng giới thiệu bài viết: “Chiến thắng Đường 9 - Nam Lào 1971 và bài học vận dụng trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc hiện nay” của Tiến sĩ Trần Hữu Huy, Viện Lịch sử quân sự Việt Nam.

Chiến thắng Đường 9 - Nam Lào 1971 và bài học vận dụng trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc hiện nay - Ảnh 1.

Sức lan tỏa của chiến thắng Đường 9 - Nam Lào vượt ra khỏi giới hạn cả về mặt không gian và thời gian; xứng đáng là một trong những “bản anh hùng ca” trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Ảnh: Lương Nghĩa Dũng/TTXVN

Thử thách ngặt nghèo của cuộc kháng chiến

Năm 1969, Richard Nixon trúng cử lên làm Tổng thống Mỹ, công bố học thuyết mang tên mình (Học thuyết Nixon) và chiến lược toàn cầu “Ngăn đe thực tế”, chủ trương chuyển dần gánh nặng chiến tranh cho các nước phụ thuộc nhằm giảm bớt xương máu người Mỹ trên chiến trường.

Chính quyền Nixon quyết định thực hiện thí điểm ở miền Nam Việt Nam chiến lược toàn cầu mới, đề ra chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh”. Theo đó, quân viễn chinh sẽ rút dần về nước; quân đội Sài Gòn giữ vai trò nòng cốt chiến đấu, nhưng vẫn do Mỹ chỉ huy thông qua hệ thống cố vấn quân sự, cung cấp tiền bạc, vũ khí kỹ thuật, phương tiện chiến tranh hiện đại.

Thực hiện chiến lược mới vạch ra, trong hai năm 1969-1970, Mỹ - chính quyền Sài Gòn tăng cường bắt lính, củng cố phát triển lực lượng (đạt mức hơn 700.000 quân), đẩy mạnh các cuộc hành quân bình định, chiếm lại phần lớn vùng nông thôn rộng lớn, kể cả vùng cách mạng mới giải phóng trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968.

Trước sự đánh phá tàn khốc của quân thù, cách mạng miền Nam gặp rất nhiều khó khăn: Bị mất đất, mất dân, thế và lực tiến công suy giảm; hầu hết các đơn vị chủ lực Quân giải phóng hoặc phải kéo ra miền Bắc để củng cố, hoặc chuyển sang bên kia biên giới, một số đơn vị giải thể. Nghiêm trọng hơn, đầu năm 1970, Mỹ chỉ đạo các thế lực tay sai phản động tiến hành cuộc đảo chính xóa bỏ nền hòa bình trung lập của Campuchia, chính thức mở rộng chiến tranh xâm lược ra toàn Đông Dương.

Trên cơ sở những kết quả đạt được bước đầu, từ cuối năm 1970, Mỹ và chính quyền Sài Gòn quyết định tập trung lực lượng mở đồng thời ba cuộc hành quân quy mô lớn đánh phá tuyến chi viện chiến lược Bắc - Nam (đường Trường Sơn) của cách mạng 3 nước Đông Dương trong mùa khô 1970 - 1971, đó là: Cuộc hành quân mật danh “Lam Sơn 719” đánh ra khu vực Đường 9 - Nam Lào; cuộc hành quân mật danh “Toàn thắng 1/71” đánh lên vùng Kampong Cham và Krachiê (Đông Bắc Campuchia); cuộc hành quân mật danh “Quang Trung 4” đánh ra vùng ngã ba biên giới Việt Nam - Lào - Campuchia.

Trong ba cuộc hành quân trên, cuộc hành quân mật danh “Lam Sơn 719” đánh ra khu vực Đường 9 - Nam Lào (tỉnh Savannakhet) có quy mô lớn nhất. Mỹ - chính quyền Sài Gòn đã tung vào cuộc hành quân này những đơn vị thiện chiến và trù bị chiến lược (sư đoàn dù, sư đoàn thủy quân lục chiến), lực lượng lúc cao nhất lên tới 55.000 quân, trong đó quân đội Sài Gòn 40.000; quân Mỹ hỗ trợ 15.000, huy động hơn 500 xe tăng và xe bọc thép, gần 300 khẩu pháo và 1.000 máy bay các loại; đồng thời còn nhận được sự hỗ trợ từ quân đội phái hữu Lào (9 tiểu đoàn) ở phía tây Đường 9.

Mục đích của cuộc hành quân là: Đánh phá, cắt đứt hoàn toàn từ gốc tuyến hành lang chi viện chiến lược Bắc - Nam, làm suy yếu sức chiến đấu của cách mạng ba nước Đông Dương; thể nghiệm công thức cơ bản chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh”: Quân đội Sài Gòn + cố vấn Mỹ + hỏa lực và hậu cần Mỹ; thử thách quyết tâm, khả năng quân sự của miền Bắc Việt Nam, hỗ trợ cuộc chiến tranh xâm lược ở Lào và Campuchia; tạo sức ép trên bàn đàm phán tại Hội nghị Paris, buộc ta phải nhân nhượng, chấp nhận giải pháp do Mỹ đưa ra.

Địch dự kiến sẽ thực hiện cuộc tiến công và các hoạt động đánh phá liên tục trong vòng hơn 3 tháng, từ tháng 2 đến đầu tháng 5 năm 1971. Cả Mỹ và chính quyền Sài Gòn đều chủ quan cho rằng quân đội Sài Gòn đã đủ sức đương đầu đánh bại chủ lực của đối phương (cả Quân giải phóng miền Nam Việt Nam và chủ lực Bắc Việt Nam).

Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Melvin R Laird khẳng định rằng: “Một cuộc hành quân tiến công lớn đầu tiên của quân đội Nam Việt Nam mà không hề có bất kì sự hỗ trợ nào trên bộ của Mỹ sẽ là một bằng chứng rõ ràng về thắng lợi của “Việt Nam hóa chiến tranh”.

Như vậy, cuộc hành quân “Lam Sơn 719” thực sự là một bước phiêu lưu quân sự, thể hiện rõ những toan tính tham vọng chưa từng có của Mỹ và chính quyền Sài Gòn. Bởi ngay trong thời kỳ tiến hành chiến lược “Chiến tranh cục bộ” (1965 - 1968), khi có hơn nửa triệu quân viễn chinh Mỹ ở Nam Việt Nam làm nòng cốt, cộng với gần 600.000 quân Sài Gòn, địch lúc đó cũng chưa mở cuộc hành quân bộ binh quy mô lớn vượt biên giới ra khu vực Đường 9 - Nam Lào. Âm mưu và hành động của địch đã đặt cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam nói riêng, sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc ba nước Đông Dương nói chung đứng trước thử thách rất ngặt nghèo.

Chiến công vang dội và bài học lịch sử

Chiến thắng Đường 9 - Nam Lào 1971 và bài học vận dụng trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc hiện nay - Ảnh 3.

Quân giải phóng truy kích địch tại mặt trận Đường 9 - Nam Lào. Chiến thắng Đường 9 - Nam Lào năm 1971 tác động mạnh đến cục diện chiến trường, giáng một đòn nặng vào chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” của Mỹ, đồng thời đánh dấu bước trưởng thành mới của Quân đội nhân dân Việt Nam. Ảnh: Lương Nghĩa Dũng/TTXVN

Về phía ta, nửa đầu năm 1970, khi đế quốc Mỹ mở rộng chiến tranh trên bộ sang Campuchia, Bộ Chính trị, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã họp, nhận định: Thời gian tới, âm mưu quan trọng nhất của Mỹ là tăng cường đánh phá tuyến chi viện của cách mạng ba nước Đông Dương.

Từ đó, Bộ Chính trị giao nhiệm vụ cho Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng: “Phải có kế hoạch sẵn sàng đánh bại các cuộc tấn công lớn hoặc những hoạt động lấn chiếm, bảo vệ hành lang chiến lược của ta” (Trích Nghị quyết Bộ Chính trị ngày 19/6/1970).

Để bảo đảm giành thắng lợi, Bộ Chính trị tiếp tục báo cáo và kiến nghị với Ban Chấp hành Trung ương Đảng ta cần sớm chủ động bàn bạc với Trung ương Đảng Nhân dân Lào cùng nhau đi đến thống nhất về chủ trương lãnh đạo, chỉ đạo các đơn vị, các chiến trường liên quan lập phương án hiệp đồng tác chiến, phát huy sức mạnh tình đoàn kết và liên minh chiến đấu đặc biệt Việt Nam - Lào.

Chấp hành chủ trương chiến lược đề ra, từ mùa hè năm 1970, Quân ủy Trung ương và Bộ Tổng Tham mưu bắt tay xây dựng kế hoạch tác chiến cho mùa khô 1970-1971, trong đó thống nhất đánh giá: Mỹ và chính quyền Sài Gòn sẽ mở các cuộc hành quân bộ binh quy mô lớn vượt biên giới đánh phá tuyến vận tải Trường Sơn; đồng thời dự đoán địch sẽ tiến công ở ba hướng: Đường 9 - Nam Lào, vùng ba biên giới Việt Nam - Lào - Campuchia và Đông Bắc Campuchia, trong đó hướng chủ yếu là Đường 9 - Nam Lào. Đây là nhận định chính xác, thể hiện rõ trí tuệ, tài năng, sự mẫn cảm, nhạy bén của cơ quan tham mưu và chỉ huy chiến lược, đặt cơ sở cho toàn bộ thắng lợi về sau.

Công tác chuẩn bị được tiến hành khẩn trương, toàn diện trên tất cả các mặt, các hướng dự kiến. Riêng tại hướng chủ yếu Đường 9 - Nam Lào, ngày 31/1/1971, Bộ Chính trị chỉ thị cho Quân ủy Trung ương: Nhất thiết phải đánh thắng, dù có phải động viên sức người, sức của và hy sinh như thế nào, vì đây là một trong những cuộc đọ sức có ý nghĩa quyết định về chiến lược.

Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương hạ quyết tâm mở chiến dịch phản công Đường 9 - Nam Lào (mật danh Mặt trận 702), đặt dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Bộ Quốc phòng. Thiếu tướng Lê Trọng Tấn, Phó Tổng Tham mưu trưởng được cử làm Tư lệnh.

Thiếu tướng Lê Quang Đạo, Phó Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị được cử làm Chính ủy, kiêm Bí thư Đảng ủy chiến dịch. Thượng tướng Văn Tiến Dũng, Tổng Tham mưu trưởng được cử làm đại diện của Quân ủy Trung ương và Bộ Tổng tư lệnh trực tiếp chỉ đạo Mặt trận.

Lực lượng tham gia chiến dịch gồm nhiều đơn vị chủ lực mạnh, bao gồm: 5 sư đoàn bộ binh (308, 304, 320, 324 và 2), 4 tiểu đoàn tăng thiết giáp, 4 trung đoàn pháo binh, 4 trung đoàn pháo phòng không, một số tiểu đoàn đặc công cùng lực lượng tại chỗ của các mặt trận B4 (Quân khu Trị - Thiên), B5 (Mặt trận Đường 9 - Bắc Quảng Trị), Đoàn 559 (Bộ đội Trường Sơn). Tổng quân số 60.000 người.

Theo đề nghị từ phía Việt Nam, tháng 1/1971, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Nhân dân Lào họp, nhấn mạnh: “Nhiệm vụ trung tâm số một của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân Lào trong lúc này là đánh thắng đế quốc Mỹ và tay sai, giành thắng lợi to lớn cách mạng Lào và hoàn thành nghĩa vụ quốc tế vẻ vang của mình”, đồng thời trực tiếp chỉ đạo nhân dân các bộ tộc và lực lượng vũ trang cách mạng Nam Lào, nhất là tại tỉnh Savannakhet (chiến trường chính) phối hợp với bộ đội Việt Nam chiến đấu.

Chiến dịch phản công Đường 9 - Nam Lào bắt đầu từ ngày 30/1 và kết thúc vào ngày 23/3/1971, diễn ra vô cùng quyết liệt. Trải qua hơn 50 ngày đêm anh dũng chiến đấu, ta đã giành thắng lợi vang dội, đánh bại hoàn toàn cuộc hành quân “Lam Sơn 719” của quân đội Sài Gòn, loại khỏi vòng chiến đấu hơn 21.000 quân chủ lực địch; bắn rơi và phá hủy 556 máy bay, 528 xe tăng, xe bọc thép, 112 khẩu pháo, cối, thu giữ nhiều phương tiện chiến tranh và vũ khí.

Lần đầu tiên, ta tổ chức một chiến dịch phản công hiệp đồng binh chủng quy mô lớn đánh tiêu diệt một tập đoàn quân chủ lực tinh nhuệ của địch. Với đại thắng Đường 9 - Nam Lào 1971, ta đã bảo vệ được vùng giải phóng quan trọng, giữ vững hành lang vận chuyển chiến lược Bắc - Nam, giành lại thế tiến công cho cách mạng ba nước Đông Dương.

Về phía Mỹ và chính quyền Sài Gòn, thất bại tại Đường 9 - Nam Lào 1971 đánh dấu sự phá sản của công thức chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” (quân đội Sài Gòn + cố vấn Mỹ + hỏa lực và hậu cần Mỹ), buộc phải quay về phòng ngự bị động và không còn khả năng mở các cuộc tiến công quy mô lớn ra vòng ngoài.

Chiến thắng Đường 9 - Nam Lào 1971 đã để lại cho cách mạng nhiều bài học quý báu, có thể vận dụng trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc hiện nay.

Một là, thường xuyên nắm bắt diễn biến chiến trường, đánh giá đúng âm mưu, hành động của địch, đề ra chủ trương lãnh đạo, biện pháp đối phó kịp thời, chính xác. Bối cảnh hiện nay, tình hình trong nước, khu vực và quốc tế, nhất là trên biển Đông có những diễn biến phức tạp; các thế lực thù địch ra sức thực hiện chiến lược “Diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ nhằm chống phá cách mạng Việt Nam.

Do đó, chúng ta luôn nêu cao tinh thần cảnh giác, theo dõi sát sao mọi âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch, hoạt động của các nước có liên quan ảnh hưởng đến độc lập, chủ quyền thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ. Trên cơ sở đó, đề ra chủ trương, giải pháp đúng đắn bảo vệ lợi ích quốc gia - dân tộc, không để bị động, bất ngờ trong mọi tình huống.

Hai là, không ngừng chăm lo phát triển lực lượng vũ trang cách mạng làm nòng cốt cho kháng chiến; đặc biệt là xây dựng được những binh đoàn chủ lực mạnh, sẵn sàng làm tốt nhiệm vụ cơ động chiến lược, chiến dịch.

Trong thời kỳ hiện nay, chúng ta tiếp tục quán triệt, thực hiện nghiêm túc chủ trương của Đảng về xây dựng Quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại; lấy vững mạnh về chính trị và chuẩn mực “Bộ đội Cụ Hồ” làm cơ sở, tạo tiền đề vững chắc để đến năm 2030 xây dựng Quân đội hiện đại, đáp ứng yêu cầu bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.

Ba là, phối hợp hoạt động chặt chẽ giữa các chiến trường, đặc biệt là sự phối hợp chiến đấu giữa quân dân Việt Nam và quân dân Lào, phát huy sức mạnh đoàn kết nhân dân ba nước Đông Dương.

Trong thời kỳ hiện nay, nhận thức rõ tầm quan trọng của các nước láng giềng đối với an ninh và phát triển đất nước, Đảng và Nhà nước ta tiếp tục chủ trương tăng cường quan hệ hữu nghị, hợp tác toàn diện với các nước láng giềng, đặc biệt là với hai nước bạn Lào và Campuchia, vì hòa bình, thịnh vượng chung trong khu vực và lợi ích của mỗi nước.

Sau 50 năm nhìn lại chiến dịch phản công Đường 9 - Nam Lào 1971, chúng ta càng nhận thức sâu sắc, toàn diện hơn về tầm vóc, ý nghĩa của thắng lợi lịch sử này.

Đó thực sự là minh chứng góp phần khẳng định cho sức mạnh trí tuệ, sức mạnh đoàn kết của nhân dân Việt Nam trong cuộc đụng đầu lịch sử với đế quốc Mỹ xâm lược, đúng như Đại tướng Văn Tiến Dũng đã khẳng định: “Ảnh hưởng của chiến dịch lịch sử này vượt xa phạm vi của bản thân nó cả về không gian và thời gian”.

Đường dây nóng: 0943 113 999

Soha
Báo lỗi cho Soha

*Vui lòng nhập đủ thông tin email hoặc số điện thoại