Tài sản không di chúc, bà cả đến đòi quyền lợi với bà 2

Lê Nguyễn |

(Soha.vn) -Năm 1997, bố tôi mất không để lại di chúc. Nay các anh chị con vợ thứ nhất của bố tôi về đòi chia tài sản.

Câu hỏi của độc giả có nội dung như sau:

Năm 1970, bố tôi ly hôn với vợ thứ nhất (có được 3 người con). Năm 1971, bố tôi lấy mẹ tôi (cũng được 3 người con). Sinh thời bố mẹ tôi đã bán qua 6 căn nhà & đến năm 1985 mới ở ổn định tại một chỗ, không có tranh chấp cho đến nay. Năm 1997, bố tôi mất không để lại di chúc. Năm 2013, ba anh em tôi & mẹ tôi làm khai nhận thừa kế để mẹ tôi đứng tên duy nhất trong sổ đỏ sau đó mẹ tôi đã chuyển nhượng cho người khác (có hợp đồng chuyển nhượng & sổ đỏ đã ra tên cho bên mua).

Nay các anh chị con vợ thứ nhất của bố tôi về đòi chia tài sản (mặc dù đã bán, ko còn tài sản). Mẹ tôi & ba anh em tôi không đồng ý vì thực tế từ khi bố tôi mất đến nay không hề có văn bản xác nhận của các đồng thừa kế xác nhận căn nhà (đã bán) là tài sản chung chia.

Vậy tôi xin hỏi các anh chị con vợ thứ nhất của bố tôi có quyền đòi chia tài sản theo thừa kế hoặc chia tài sản chung hay không? Và việc mẹ tôi & ba anh em tôi làm khai nhận thừa kế để mẹ tôi đứng tên duy nhất trong sổ đỏ có ảnh hưởng hay bị tuyên vô hiệu không? Giao dịch giữa mẹ tôi & bên nhận chuyển nhượng có bị ảnh hưởng gì không?

Luật sư Trương Quốc Hòe - Trưởng Văn phòng luật Interla trả lời: Căn cứ vào những thông tin mà anh (chị) đã nêu, áp dụng quy định của pháp luật hiện hành, chúng tôi đã nghiên cứu và xin đưa ra một số ý kiến tư vấn như sau:

Chúng tôi tạm chia tình huống của anh (chị) thành 2 trường hợp như sau:

Trường hợp 1: Khối tài sản trên hình thành trong thời kỳ hôn nhân với người vợ thứ nhất.

Như vậy, theo quy định tại Luật hôn nhân gia đình nếu khối tài sản được hình thành trong thời kỳ hôn nhân thì khối tài sản đó được xác định là tài sản chung của cả hai vợ chồng và khi ly hôn người vợ thứ nhất sẽ được hưởng ½ khối tài sản đó. Và đương nhiên 3 người con của người vợ thứ nhất có thể được hưởng ½ khối tài sản trên nếu như mẹ chúng chia di sản.

Vì thế, cả 6 ngôi nhà trên mặc dù bố mẹ bạn đã bán, nhưng nếu nó rơi vào trường hợp này, ba người con khác của bố bạn có quyền đòi chia lại tài sản thừa kế và đòi lại phần tài sản mà người vợ thứ nhất được hưởng khi ly hôn theo đúng quy định của pháp luật.

Và giao dịch giữa mẹ bạn và bên nhận chuyển nhượng sẽ bị tuyên vô hiệu và bị hủy. Hai bên sẽ phải trả lại cho nhau những gì đã nhận.

Về thời hiệu khởi kiện

Thời hiệu là thời hạn do pháp luật quy định mà khi kết thúc thời hạn đó thì chủ thể được hưởng quyền dân sự, được miễn trừ nghĩa vụ dân sự hoặc mất quyền khởi kiện vụ án dân sự, quyền yêu cầu giải quyết việc dân sự (Điều 154 Bộ luật Dân sự).

Ðiều 645 Bộ luật Dân sự quy định về thời hiệu khởi kiện về thừa kế như sau:

“Thời hiệu khởi kiện để người thừa kế yêu cầu chia di sản, xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc bác bỏ quyền thừa kế của người khác là mười năm, kể từ thời điểm mở thừa kế. Thời hiệu khởi kiện để yêu cầu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ về tài sản của người chết để lại là ba năm, kể từ thời điểm mở thừa kế”.

Như vậy, sau thời hạn 10 năm kể từ thời điểm mở thừa kế (thời điểm người để lại di sản chết), người thừa kế không còn quyền khởi kiện thừa kế yêu cầu chia di sản, xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc bác bỏ quyền thừa kế của người khác; và sau thời hạn là 3 năm, cá nhân, tổ chức không còn quyền khởi kiện yêu cầu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ về tài sản của người chết để lại.

Tuy nhiên, để giải quyết những vướng mắc về thời hiệu khởi kiện về thừa kế, Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao đã ban hành Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP ngày 10/8/2004 và hướng dẫn như sau:

- Trường hợp trong thời hạn mười năm, kể từ thời điểm mở thừa kế mà các đồng thừa kế không có tranh chấp về quyền thừa kế và có văn bản cùng xác nhận là đồng thừa kế hoặc sau khi kết thúc thời hạn mười năm mà các đồng thừa kế không có tranh chấp về hàng thừa kế và đều thừa nhận di sản do người chết để lại chưa chia thì di sản đó chuyển thành tài sản chung của các thừa kế. Khi có tranh chấp và yêu cầu Toà án giải quyết thì không áp dụng thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế, mà áp dụng các quy định của pháp luật về chia tài sản chung để giải quyết và cần phân biệt như sau:

+ Trường hợp có di chúc mà các đồng thừa kế không có tranh chấp và thoả thuận việc chia tài sản sẽ được thực hiện theo di chúc khi có nhu cầu chia tài sản, thì việc chia tài sản chung đó được thực hiện theo di chúc.

+ Trường hợp không có di chúc mà các đồng thừa kế thỏa thuận về phần mỗi người được hưởng khi có nhu cầu chia tài sản, thì việc chia tài sản chung đó được thực hiện theo thoả thuận của họ.

+ Trường hợp không có di chúc và các đồng thừa kế không có thoả thuận về phần mỗi người được hưởng khi có nhu cầu chia tài sản, thì việc chia tài sản chung đó được thực hiện theo quy định của pháp luật về chia tài sản chung.

- Trường hợp người chết để lại di sản cho các thừa kế nhưng các thừa kế không trực tiếp quản lý, sử dụng mà di sản đó đang do người khác chiếm hữu bất hợp pháp hoặc thuê, mượn, quản lý theo uỷ quyền... thì các thừa kế có quyền khởi kiện người khác đó để đòi lại di sản.

Đối chiếu với quy định nêu trên thì có hai khả năng như sau:

- Thứ nhất: Nếu các đồng thừa kế gửi đơn khởi kiện đến tòa án mà nội dung khởi kiện là khởi kiện về thừa kế (như chia di sản thừa kế, xác định quyền thừa kế …) thì Tòa án sẽ trả lại đơn khởi kiện do đã hết thời hiệu khởi kiện.

- Thứ hai: Nếu các đồng thừa kế gửi đơn khởi kiện đến tòa án nhưng nội dung khởi kiện là yêu cầu giải quyết việc chia tài sản chung của các đồng thừa kế thì tòa án sẽ thụ lý đơn; trong trường hợp này, tòa án sẽ áp dụng các quy định của pháp luật về chia tài sản chung để giải quyết.

Theo như thông tin mà anh cung cấp, thì bố anh mất từ năm 1997 và không để lại di chúc, vậy đã hêt thời hiệu mà các đồng thừa kế khởi kiện. Từ đó, việc các con của vợ thứ nhất khởi kiện đòi chia lại di sản là không có căn cứ.

Trường hợp thứ hai: Khối tài sản trên hình thành sau khi ly hôn với vợ thứ nhất.

Nếu khối tài sản đó hình thành sau khi ly hôn với người vợ thứ nhất và được bố bạn nhập vào tài sản chung của vợ chồng thì khối tài sản đó sẽ trở thành tài sản chung của bố mẹ bạn không liên quan đến người vợ thứ nhất. Như vậy, đương nhiên ba người con khác của bố bạn không có quyền đòi thừa kế và không có quyền chia tài sản chung.

LS Trương Quốc Hòe

Luật sư Trương Quốc Hòe - Trưởng văn phòng luật sư InterLa (Đoàn Luật sư Hà Nội).

Luật sư Trương Quốc Hòe không còn xa lạ với cả người trong giới và nhiều người dân, doanh nghiệp. Dưới góc độ pháp lý, ông luôn có những phân tích sắc sảo với mỗi vụ án.

Ông từng tham gia bào chữa và giúp đỡ bào chữa miễn phí cho nhiều người dân. Luật sư Trương Quốc Hòe cũng từng tham gia bào chữa cho nhiều tội phạm tuổi vị thành niên.

Đường dây nóng: 0943 113 999

Soha
Báo lỗi cho Soha

*Vui lòng nhập đủ thông tin email hoặc số điện thoại