Vợ chồng tuân thủ các luật billings để đạt được ba mục đích: có con, trì hoãn có con và theo dõi sức khỏe sinh sản.
Phương pháp Billings được nghiên cứu từ năm 1953 bởi ông bà bác sĩ John và Evelyn Billings cùng các nhà khoa học ở Melbourne, nước Úc, dựa trên những nghiên cứu về nội tiết tố buồng trứng của GS. James B. Brown và về chất nhờn cổ tử cung của GS. Erik Odeblad.
Phương pháp bắt đầu được truyền giảng bên ngoài nước Úc từ 1968, đã có trên 100 quốc gia biết đến phương pháp này và có hơn 50 triệu cặp vợ chồng sử dụng phương pháp (1987).
Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) đã nghiên cứu sử dụng phương pháp trên 5 quốc gia, để kiểm nghiệm phương pháp trong các nhóm dân số có kinh tế và văn hóa - xã hội khác nhau và chính thức công nhận vào năm 1978.
Theo một nghiên cứu đang tiếp tục tiến hành về việc ứng dụng phương pháp Billings cho các đôi vợ chồng hiếm muộn không rõ nguyên nhân, có 1.032/ 3.268 trường hợp đã đậu thai sau 2 - 5 chu kỳ áp dụng những chỉ dẫn của phương pháp Billings, dù nhiều người trong số này đã không thể có con sau hơn 5 năm, đạt tỉ lệ 31,6% so với 20% không dùng phương pháp.
Với số phụ nữ còn lại thì rồi cuối cùng nhiều người cũng sẽ có thai.
Chất nhờn cổ tử cung là một điều kiện quan trọng cho việc thụ thai. Nếu tập được thói quen để ý cảm giác ở âm hộ và quan sát hình thái chất nhờn trong ngày, hầu hết phụ nữ đều cảm giác được khi nào chất nhờn cổ tử cung xuất hiện.
Tuy nhiên, khả năng thụ thai cao nhất là khi có cảm giác trơn nhờn và ngày vừa hết cảm giác trơn, đó là lúc gần nhất với thời điểm rụng trứng. Chất nhờn trơn là môi trường thuận lợi cho tinh trùng trưởng thành, sống từ 3 - 5 ngày và di chuyển đến gặp trứng.
Việc học nhận biết thời điểm bạn có khả năng thụ thai cao nhất sẽ giúp thêm cơ hội có thai, đặc biệt ở những phụ nữ có rất ít chất nhờn trong mỗi chu kỳ hoặc chỉ có vài lần có chất nhờn trong năm hay ở những người rụng trứng không thường xuyên.
Khả năng thụ thai cao nhất là khi có cảm giác trơn nhờn và ngày vừa hết cảm giác trơn
Thói quen ghi biểu đồ vào mỗi tối cho bạn biết về khả năng thụ thai của bạn ngay trong ngày hôm đó, bạn cũng biết chu kỳ này là vô sinh hay có khả năng sinh sản.
Biểu đồ còn cho thấy có dấu hiệu trì hoãn rụng trứng khi bạn bị stress, tập luyện quá căng thẳng, béo quá hay gầy yếu suy nhược, cho con bú, tiền mãn kinh, rối loạn nội tiết...
Biểu đồ Billings kết hợp đo nội tiết tố buồng trứng giúp phát hiện Progesteron tăng cao trong hội chứng tuyến thượng thận buồng trứng; cũng cho thấy cổ tử cung giảm tiết chất nhờn ở một số người dùng thuốc ngừa thai lâu dài, lạm dụng chất, đặc biệt người nghiện thuốc lá có dùng thuốc ngừa thai; hay đã can thiệp vào cổ tử cung như phá thai ngoại khoa, khoét, đốt.
Biểu đồ Billings kết hợp với triệu chứng lâm sàng, các xét nghiệm y khoa có thể phát hiện một số bệnh lý như rối loạn vùng hạ đồi, hội chứng buồng trứng đa nang (PCOS), tăng Prolactin, cường giáp hay suy giáp, lạc nội mạc tử cung…
Thói quen theo dõi cảm giác chất nhờn và ghi biểu đồ mỗi tối cũng giúp phát hiện và điều trị sớm viêm nhiễm sinh dục hay bệnh lý cổ tử cung.
Cũng cần biết, phương pháp Billings không phải là câu trả lời cho mọi câu hỏi về hiếm muộn. Chỉ sau khi những căn bệnh tiềm ẩn về tinh thần hay thể lý được giải quyết, như ống dẫn trứng bị tắc nghẽn… được chữa trị, dùng phương pháp Billings mới có kết quả hơn.
Cần có sự hợp tác của các bác sĩ chuyên về hiếm muộn, các nhà tâm lý - tâm linh và các tư vấn viên Billings có kinh nghiệm.
Thật đáng tiếc là một số đôi bạn sau nhiều nỗ lực tìm kiếm giải pháp cho vấn đề của mình đã không thể có con!
Vì vậy, họ cần được đối xử bằng tình thương, bằng những an ủi, khích lệ, gieo hy vọng: không có con không có nghĩa là hôn nhân thất bại, còn nhiều đứa trẻ bị bỏ rơi cần đôi bạn mở lòng đón nhận, cho nó một mái ấm gia đình với người cha người mẹ yêu thương nhau và cùng nuôi dạy nó nên người.