Trong bài viết mới đây, Hãng tin RIA Novosti đã công bố danh sách 5 máy bay chiến đấu được trang bị động cơ piston có tốc độ nhanh nhất, chiếm ưu thế trên bầu trời trong Chiến tranh Thế giới thứ hai.
“Ngựa hoang” P-51B Mustang
Cái tên đầu tiên được RIA Novosti đưa vào danh sách Top 5 máy bay chiến đấu có tốc độ nhanh nhất trong Chiến tranh Thế giới thứ hai là P-51B Mustang của Mỹ. Máy bay chiến đấu tầm xa P-51B Mustang sở hữu vận tốc bay 700km/h- một tốc độ được coi là kỷ lục vào thời kỳ bấy giờ.
Chiếc máy bay này được trang bị động cơ piston Packard Merlin V-1650-3 - một bản sao được cấp phép của mẫu động cơ Rolls-Royce Merlin của Anh. Trong điều kiện chiến đấu, động cơ Packard Merlin V-1650-3 sản sinh ra công suất 1650 mã lực.
Máy bay chiến đấu P-51B Mustang. Nguồn: RIA.
Những chiếc máy bay chiến đấu P-51B Mustang đã được tiến hành sản xuất hàng loạt vào tháng 5 năm 1943. Được biết, có hàng trăm chiếc P-51B Mustang được xuất xưởng. Vũ khí của P-51B Mustang là 4 khẩu súng máy cỡ nòng lớn.
Trong Không quân Mỹ, P-51B Mustang được sử dụng chủ yếu làm máy bay chiến đấu hộ tống các máy bay ném bom B-24 Liberator và B-17 Flying Fortress.
Tốc độ cao, đặc tính xuất sắc và phạm vi hoạt động rộng lớn cho phép P-51B Mustang “che chở” cho các máy bay ném bom của Mỹ ở hậu cứ của Đức, nơi máy bay chiến đấu Mỹ P-47 Thunderbolt không thể bay đến.
“Thợ săn” Lavochkin La-27
Đứng vị trí thứ hai trong danh sách 5 máy bay chiến đấu có tốc độ nhanh nhất trong Chiến tranh Thế giới thứ hai là Lavochkin La-7 của Liên Xô. La-7 được phát triển dưới sự chỉ đạo của “công trình sư” Semyon Lavochkin.
Lavochkin La-7 đã thực hiện chuyến bay đầu tiên vào năm 1944 và trở thành một trong những máy bay chiến đấu tiền tuyến tốt nhất trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Động cơ 12 xi lanh ASh-82FN với hệ thống phun nhiên liệu trực tiếp có công suất 1850 mã lực giúp máy bay chiến đấu Lavochkin La-7 tăng tốc đến 685km/h khi bay.
Máy bay chiến đấu Lavochkin La-27. Nguồn: RIA
Nhờ cách lái đơn giản, vũ khí trang bị (3 pháo cỡ nòng 20 mm UB-20 hoặc 2 pháo ShVAK) và khả năng cơ động cao, các phi công Liên Xô điều khiển Lavochkin La-7 có thể tạo ra luật chơi riêng trước Lực lượng Không quân Luftwaffe của Đức.
Các phiên bản nâng cấp của dòng La-7 có nhiệm vụ bảo vệ lực lượng mặt đất và máy bay ném bom, hộ tống máy bay tấn công, làm nhiệm vụ truy tìm và theo dõi trên không. Chúng vượt qua các máy bay chiến đấu Focke-Wulfs và Messerschmitt của Không quân Đức về tốc độ bay khi lên cao. Phi công xuất sắc nhất của Liên Xô Ivan Kozhedub đã điều khiển chiếc máy bay này.
“Kẻ đánh chặn” Yak-9U
Cái tên thứ ba trong Top 5 máy bay chiến đấu có tốc độ nhanh nhất trong Chiến tranh Thế giới thứ hai được Hãng tin Nga đưa ra là chiếc Yak-9U của Liên Xô.
Máy bay chiến đấu phiên bản cải tiến Yak-9U, được trang bị động cơ công suất 1500 mã lực VK-107A và có tốc độ 672km/h, dễ dàng đuổi kịp máy bay chiến đấu Focke-Wulf FW-190A của Không quân Đức.
Trong trận không chiến, phi công điều khiển Yak-9U với khả năng cơ động đáng kinh ngạc ở phương thẳng đứng có thể nhanh chóng tóm được mục tiêu và tấn công kẻ thù từ trên cao. Máy bay chiến đấu Yak-9U mang theo pháo 20mm ShVAK và 2 súng máy cỡ nòng lớn UBS.
Máy bay chiến đấu Yak-9U. Nguồn: air.war.ru.
Liên Xô bắt đầu sản xuất Yak-9 vào năm 1942 và cho đến năm 1948 có khoảng 17.000 chiếc được xuất xưởng. Yak-9 phục vụ Không quân Liên Xô cho đến năm 1950. Do cơ chế điều khiển Yak-9 không phức tạp nên loại máy bay này rất được ưa chuộng.
“Kền kền” Focke-Wulf FW-190A
Cái tên thứ tư được Hãng tin Nga đưa ra là Focke-Wulf FW-190A. Máy bay chiến đấu của Không quân Đức Focke-Wulf FW-190A có tốc độ tối đa là 670km/h và được trang bị động cơ piston 14 xi lanh ВМW-801D-2 có công suất 1700 mã lực.
Máy bay chiến đấu Focke-Wulf FW-190A. Nguồn: RIA.
Mỗi chiếc máy bay mang theo 2 khẩu súng máy và 4 khẩu pháo và cũng có thể dùng một quả bom 250kg tấn công mục tiêu. Tính năng nổi bật làm nên thương hiệu Focke-Wulf FW-190A là chiếc máy bay này có tốc độ rất cao khi lộn nhào. Do đó, chúng có thể dễ dàng lao xuống cạnh đuôi các máy bay chiến đấu của Liên Xô và Anh trong Chiến tranh Thế giới thứ hai.
"Các máy bay chiến đấu của Đức rất nhanh, cơ động và được trang bị hệ thống vũ khí rất mạnh, đặc biệt là Focke-Wulf FW-190A”, phi công Dmitri Alexeev thuộc Trung đoàn hàng không tiêm kích cận vệ số 41 đã viết như vậy trong cuốn hồi ký.
“Số chín” của người Anh
Máy bay chiến đấu huyền thoại của Anh Supermarine Spitfire ở phiên bản nâng cấp IX đã được gia tăng vận tốc lên đến 660 km/h. Các nhà phát triển đã đạt được điều này bằng cách trang bị cho máy bay động cơ 12 xi lanh Rolls-Royce Merlin công suất 1.700 mã lực.
Ở độ cao lớn và trung bình, Supermarine Spitfire IX là đối thủ đầy nguy hiểm của máy bay chiến đấu thuộc Không quân Đức Focke-Wulf FW-190A.
Máy bay chiến đấu Supermarine Spitfire IX. Nguồn: RIA
Supermarine Spitfire IX được chế tạo thành công đến nỗi nó nhanh chóng trở thành chiếc máy bay chiến đấu chủ chốt của Không quân Hoàng gia Anh.
Những chiếc máy bay này được sản xuất từ tháng 6-1943 và duy trì sản xuất dây chuyền cho đến khi kết thúc chiến tranh.
Chúng làm nhiệm vụ hộ tống máy bay ném bom, bảo vệ các căn cứ ở hậu phương và chiến đấu ở mặt trận.
Supermarine Spitfire IX được trang bị 2 khẩu pháo và 2 súng máy cỡ lớn. Tháng 10-1944, phi đội Canada lái Supermarine Spitfire đã tiêu diệt máy bay chiến đấu phản lực đầu tiên của Đức Me-262 trên bầu trời Hà Lan.