Nhật Bản phát triển máy bay vận tải nội địa Kawasaki C-2
Nghiên cứu các loại máy bay nước ngoài như C-130J Super Hercules, C-17 Globemaster III và Airbus A400M, giới chức quân sự Nhật Bản kết luận, không có loại máy bay nào đang được sản xuất sở hữu những khả năng mà Lực lượng Không quân Phòng vệ Nhật Bản (JASDF) mong muốn.
Để đáp ứng nhu cầu này, Cục Phòng vệ Nhật Bản (Bộ Quốc phòng - JDA) bắt đầu lên kế hoạch phát triển máy bay vận tải nội địa. Năm 2000, Nhật Bản bắt đầu “chốt” yêu cầu của mình đối với máy bay vận tải quân sự - được trang bị động cơ phản lực cánh quạt, có tầm bay từ Nhật Bản tới Hawaii và có trọng tải gấp đôi C-130.
Tháng 5/2001, Bộ Quốc phòng Nhật chính thức đề xuất chương trình C-X và lên kế hoạch mua 40 chiếc để thay thế các phi đội Kawasaki C-1 và C-130 Hercules đã già cỗi và tháng 12/2001, Công ty vũ trụ Kawasaki (Kawasaki Aerospace Company) thuộc Kawasaki Heavy Industries, đã được JDA chọn làm nhà thầu chính để phát triển C-X.
Kawasaki đã phát triển C-X song song với P-X (máy bay tuần tra hàng hải và là máy bay đầu tiên trên thế giới sử dụng hệ thống điều khiển bay bằng quang học, ND). Như một biện pháp tiết kiệm chi phí, các bộ phận khung và hệ thống thành phần đã được chia sẻ giữa hai máy bay.
Tính đến năm 2007, tổng chi phí phát triển hai chiếc C-X và P-X là 345 tỷ yên (tương đương 2,9 tỷ USD), thấp so với các chương trình tương tự (chỉ riêng hợp đồng phát triển chiếc Boeing P-8 Poseidon là 3,89 tỷ USD). Tháng 8/2003, dự án C-X đã vượt qua cuộc đánh giá thiết kế sơ bộ của JDA, cho phép tiến hành chế tạo nguyên mẫu.
Tuy nhiên, quá trình chế tạo nguyên mẫu đã gặp một số trục trặc về đinh tán, bộ ổn định ngang và cả các cáo buộc hối lộ liên quan đến việc mua 5 động cơ máy bay General Electric CF6-80C2.
Năm 2008, C-2 được định giá khoảng 10 tỷ yên cho mỗi máy bay (khoảng 80 triệu USD). Việc hoãn chương trình F-X và tăng cường tài trợ cho chương trình hiện đại hóa phi đội F-15J đã kéo chương trình C-X chậm 1 năm.