Thông tin từ BVĐK Đức Giang cho biết, ngày 19/7/2018, khoa Truyền nhiễm của BV đã tiếp nhận bệnh nhân tên B.V.M (52 tuổi, tại Gia Lâm, Hà Nội). Bệnh nhân vào viện với lý do cứng hàm, khó há miệng.
Bệnh nhân tiền sử khỏe mạnh, chưa có tiền sử tiêm phòng vaccine uốn ván. Khi vào viện bệnh nhân tỉnh, tiếp xúc tốt, nói khó, vết thương bàn tay phải kích thước 1cm x 1cm, đau sưng nề, chảy mủ, hàm há 2cm.
Dấu hiệu đè lưỡi tăng, tăng trương lực cơ nhẹ cổ, lưng, bụng, chưa có cơn giật. Không có dấu hiệu nhiễm trùng, không có dấu hiệu màng não, không suy hô hấp, DH chẹn ngực (-). Bệnh nhân được chẩn đoán uốn ván toàn thể giai đoạn khởi phát.
Bệnh nhân B.V.M cho biết: “Trước khi vào viện 10 ngày, tôi bị một dằm cây tre mục đâm vào lòng bàn thay phải, vết thương nhỏ nên tôi chủ quan không quan tâm lắm.
Thấy tôi kêu đau và sưng nề ở vết thương, vợ tôi có mua kháng sinh cho tôi uống và thấy đỡ hơn.
Hai ngày trước vào viện tôi xuất hiện cứng hàm, khó há miệng, nuốt khó, cứng gáy. Được gia đình đưa đi khám đi khám tại Trung tâm Y tế và được chẩn đoán theo dõi viêm khớp thái dương hàm, sau đó chuyển bệnh viện Đa khoa Đức Giang.”
Bệnh nhân M. bị cứng hàm vì nhiễm trùng uốn ván do dằm tre đâm.
Hiện tại, sau điều trị 10 ngày, bệnh nhân tỉnh táo, không sốt, miệng há 3cm, không có cơn giật. Không có dấu hiệu cường giao cảm, còn tăng trương lực cơ nhẹ vùng lưng. Tim phổi bình thường, ăn uống qua sonde, không loét, huyết động ổn định.
Phương pháp điều trị tiếp theo cho bệnh nhân được bác sĩ đưa ra là: Đảm bảo yên tĩnh và tránh các kích thích cho người bệnh.
Dùng kháng sinh tiêu diệt trực khuẩn uốn ván. Khống chế co cứng cơ, co giật, và các rối loạn thần kinh thực vật. Duy trì chức năng sống bằng các điều trị hỗ trợ (hô hấp, tuần hoàn, loét, stress, dinh dưỡng…).
Cần xử lý sớm vết thương tránh nhiễm trùng uốn ván
Bác sĩ Lê Xuân Sơn – Trưởng khoa Truyền nhiễm cho hay, Việt Nam nằm trong vùng có tỷ lệ mắc bệnh uốn ván cao.
Tại khoa Truyền nhiễm, từ tháng 3/2017 đến tháng 7/2018 đã có 3 trường hợp bệnh nhân mắc uốn ván được điều trị và khỏi hoàn toàn. Thời gian điều trị thường kéo dài, diễn biến bệnh thường phức tạp nên tiên lượng tử vong thường cao.
"Bệnh giai đoạn đầu thường rất dễ nhầm với các bệnh lý về hàm mặt mà đưa nhầm vào các khoa như chấn thương chỉnh hình, khoa hàm mặt.
Trường hợp bệnh nhân này ban đầu được khám tại phòng khám răng hàm mặt trước khi vào khoa truyền nhiễm, vì vậy khi khám bệnh và hỏi bệnh cần khai thác kỹ các tiền sử chấn thương trong 2 tháng trước đó cũng như khám kỹ các vết thương trên người bệnh nhân để tìm đường vào.
Bệnh tuy hiếm và nặng nhưng có thể phòng tránh được bằng việc xử trí vết thương đúng cách, tiêm phòng vaccine và huyết thanh kháng độc tố uốn ván"- BS. Sơn cho biết.
Vị trí chiếc dằm tre đâm trên tay bệnh nhân.
Bệnh uốn ván là một bệnh hay gặp ở các nước đang phát triển, tỷ lệ trên thế giới chỉ vào khoảng 0,1 -0,2 trường hợp/1 triệu người/năm, tỷ lệ tử vong là 13,2%. Tại Việt Nam, tỷ lệ này là 1,89 trường hợp/ 100.000 dân/năm.
Tỷ lệ tử vong <5%. Bệnh gây ra bởi vi khuẩn uốn ván, đây là một trực khuẩn gram dương kị khí sinh nha bào.
Vi khuẩn tồn tại ở 2 dạng là nha bào và dạng hoạt động, ngoài môi trường nha bào uốn ván thường tồn tại ở trong đất, cát bụi, cống rãnh, cây gỗ mục, mảnh sắt hoen gỉ, đường tiêu hóa của động vật có vú, phân súc vật, dụng cụ phẫu thuật chưa được khử khuẩn đúng cách… đường vào của vi khuẩn là trực tiếp từ những vết thương, vết xây xước bị bẩn, sau mổ đẻ hoặc vết thương động vật cắn.
Triệu chứng lâm sàng đầu tiên của bệnh thường là cứng hàm, khó há miệng mà không do chấn thương, không có sưng nề nóng đỏ hay sốt cao mà chỉ đơn thuần bệnh nhân cảm thấy khó há miệng, khó nuốt, nói khó.
Khi khám thấy cơ nhai tăng trương lực.
Giai đoạn đầu bệnh nhân chưa xuất hiện cơn co giật hay tăng trương lực cơ toàn thân, vì vậy bệnh nhân dễ bị đưa nhầm vào các khoa chấn thương chỉnh hình hoặc khoa răng hàm mặt với chẩn đoán viêm khớp, trật khớp …
Vì vậy, khi bị vết thương, xây xước hoặc động vật cắn, cần xử lý ngay vết thương bằng cách giải phóng hết dị vật trong vết thương (như bùn, đất, cát, mảnh sành, đinh, gai...), rửa vết thương bằng xà phòng nhiều lần, sát khuẩn bằng dung dịch như cồn 70 độ, ôxy già hoặc dung dịch betadin..., sau đó đưa bệnh nhân đến cơ sở y tế để được tiêm kháng huyết thanh chống vi khuẩn uốn ván, tiêm vaccine uốn ván và điều trị theo phác đồ.
Lưu ý, không nên băng kín vết thương lâu ngày, thường xuyên vệ sinh và sát khuẩn vết thương. Khi có các dấu hiệu của bệnh như: khó há miệng, cứng hàm, cứng cơ toàn thân cần phải đến cơ sở y tế ngay để được chẩn đoán bệnh và điều trị kịp thời tránh những biến chứng nguy hiểm.
BS. Trần Diệu Thúy – Phòng tiêm chủng BVĐK Đức Giang khuyến cáo, đối với người bị thương có nguy cơ mắc bệnh uốn ván thì cần xử lý như sau:
- Trường hợp người bị thương đã được gây miễn dịch bằng giải độc tố uốn ván (Tetanus Toxoid: TT) đầy đủ: Đối với vết thương nhẹ, không bị nhiễm bẩn và liều TT cuối cùng cách lúc đó > 10 năm thì phải tiêm nhắc lại 1 liều TT.
Đối với vết thương nặng hoặc bị nhiễm bẩn và trong vòng 5 năm trước đó chưa được tiêm TT thì phải tiêm nhắc lại 1 liều TT ngay trong ngày bị thương.
- Trường hợp người bị thương chưa được gây miễn dịch cơ bản đầy đủ bằng TT thì phải được tiêm 1 liều TT ngay càng sớm càng tốt sau lúc bị thương.
Nếu vết thương nặng hoặc bị nhiễm bẩn thì cần tiêm thêm huyết thanh kháng độc tố uốn ván (Tetanus antitoxic serum: SAT).
- Trường hợp người bị thương chưa được gây miễn dịch cơ bản, chưa được tiêm đủ 3 liều TT hoặc không rõ tiền sử tiêm TT và có vết thương nặng hoặc bị nhiễm bẩn thì phải chỉ định tiêm SAT càng sớm càng tốt với liều 1500IU/1ml.
Có thể tiêm TT; SAT cùng một lúc, nhưng phải dùng bơm kim tiêm riêng và tiêm ở 2 vị trí khác nhau.