Đỉa được bỏ đói từ 1 - 2 năm trước khi đưa vào sử dụng trong y tế.
Tuy nhiên, về tính an toàn của liệu pháp này vẫn còn nhiều bỏ ngỏ.
Dùng đỉa hút máu
Mắc bệnh ung thư hiếm gặp sarcoma bao hoạt dịch, chị Ellie Lofgreen đã phải vào Bệnh viện Đại học Utah, Mỹ, điều trị vào mùa hè năm nay. Các bác sĩ phẫu thuật cắt bỏ khối u, bao quanh khớp gối của chị Ellie cùng một vài cm xương và cơ nối với đầu gối.
Sau đó, họ cấy kim loại vào chân của bệnh nhân và ghép da từ đùi trên để che phủ kết quả phẫu thuật. Nhưng vài giờ sau, miếng da che bắt đầu ngả sang màu tím - dấu hiệu cho thấy rằng mô cấy ghép đang bị hoại tử. Do đó, đội ngũ y tế đã đề nghị chị Ellie sử dụng phương pháp điều trị từ... đỉa.
Bệnh nhân 31 tuổi bày tỏ: “Khi nghe đến phương pháp này, tôi hoàn toàn bị choáng ngợp. Tôi đã mong đợi bất cứ thứ gì ngoại trừ cái đó”.
Việc sử dụng đỉa trong y học hiện đại thường khiến bệnh nhân e ngại vì phương pháp này từ lâu đã bị coi là lang băm. Tuy nhiên, vào năm 2004, Cục Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Mỹ phê duyệt đỉa như một thiết bị y tế làm thông tĩnh mạch bị tắc nghẽn và điều tiết lưu lượng máu trên vùng da bị tổn thương. Kể từ đó, phương pháp này ngày càng phổ biến rộng rãi.
Khi các bác sĩ ghép một mảnh mô vào một phần khác của cơ thể, họ sẽ kết nối các mạch máu trong mô ghép với các mô xung quanh để duy trì nguồn lưu thông máu. Những ca phẫu thuật như vậy thường thành công nhưng có những lúc xảy ra tình huống bất thường.
Jayant Agarwal, Trưởng khoa Phẫu thuật thẩm mỹ, Trường Đại học Utah, cho biết: “Các tĩnh mạch rất mỏng manh. Ví dụ, dù đã ghép nối, lưu lượng máu vẫn có thể bị hạn chế do một đầu tĩnh mạch không hoạt động. Trong trường hợp khác, chẳng hạn như khi tìm kiếm tĩnh mạch ở ngón tay bị đứt là một thử thách. Trong những tình huống này, đỉa có thể phát huy tác dụng”.
Trên thế giới hiện có hơn 600 loài đỉa, trong đó một số loài không hút máu. Nhưng đỉa trâu, đỉa dược được sử dụng thường xuyên nhất trong y học. Chúng có ba hàm giống như răng cưa, mỗi hàm có khoảng 100 chiếc răng, có thể đâm thủng lớp da người.
Trong nhiều thập kỷ, các phòng thí nghiệm ở Vương quốc Anh, Mỹ, Pháp, Thổ Nhĩ Kỳ và Ukraine đã nhân giống những con đỉa y tế và cung cấp chúng cho các bệnh viện trên toàn cầu.
Thông thường, phải mất từ 1 - 2 năm để nuôi một con đỉa sẵn sàng sử dụng trong y tế. Quá trình bao gồm cho ăn sau 3, 8 và 10 tuần, 4 - 5 tháng sau đó bỏ đói chúng 2 năm. Những con đỉa được sử dụng phải bảo đảm rỗng ruột.
Bác sĩ sẽ đặt trực tiếp con đỉa lên những vết thương của bệnh nhân. Thông qua việc hút máu độc, đỉa cũng tiêm các hợp chất như hirudin và calin, có sẵn trong nước bọt, giúp chống đông máu. Nước bọt của đỉa cũng chứa các chất làm giãn mạch máu và cải thiện lưu lượng máu, từ đó giúp vết thương mau lành hơn.
Tùy thuộc vào kích thước và mức độ nghiêm trọng của vết thương, đỉa có thể hút máu độc từ 3 – 10 ngày hoặc hơn cho đến khi các mô bớt sưng tím. Mỗi con đỉa hút căng máu sẽ được thay thế bằng con mới rỗng ruột.
Trong trường hợp của chị Ellie, hơn 100 con đỉa đã hút sạch máu độc từ vết thương của bệnh nhân trong 2 tuần. Trong quá trình điều trị, bác sĩ cũng truyền máu cho Ellie để bù lại lượng máu đã mất.
Theo thời gian, phần mô ban đầu có màu sẫm và hoại tử dần chuyển sang màu tím nhạt và làn da khôi phục lại vẻ bình thường. Nhờ đó, chị Ellie sớm được xuất viện và trở về nhà. Trái với vẻ e ngại ban đầu, bây giờ, nữ bệnh nhân tin tưởng rằng chính những con đỉa đã cứu lấy phần mô bị thương tổn của chị.
Nguy cơ nhiễm trùng cao
Nước bọt của đỉa có chất chống đông máu.
Theo một nghiên cứu của Trường Đại học College London, Anh trong 277 trường hợp sử dụng đỉa trong y tế, tỷ lệ thành công là 78%. Ông Ernest Azzopardi, chuyên gia phẫu thuật thẩm mỹ, đồng tác giả của nghiên cứu, nhận định: “Đỉa là lựa chọn hấp dẫn trong lĩnh vực y tế. Tuy nhiên, do thiếu các thử nghiệm đối chứng và tiêu chuẩn để đánh giá hiệu quả của biện pháp này, rất ít người tin tưởng vào công dụng của chúng”.
Ngoài ra, tuy sở hữu nhiều công dụng, việc sử dụng đỉa trong y tế có thể khiến bệnh nhân bị nhiễm trùng da do sự xâm nhập của vi khuẩn Aeromonas sống trong ruột đỉa và được tìm thấy trong nước bọt của chúng.
Người nuôi thường không sử dụng thuốc kháng sinh diệt vi khuẩn do những vi khuẩn này vẫn quay trở lại. Họ sẽ bỏ đói đỉa để làm rỗng ruột và hạn chế vi khuẩn ở mức tối thiểu.
Tại bệnh viện, bác sĩ thường kê thêm đơn thuốc kháng sinh cho bệnh nhân như một biện pháp phòng ngừa. Tuy nhiên, nhiều nghiên cứu chỉ ra rằng một số vi khuẩn Aeromonas phát triển khả năng kháng các loại thuốc thông thường khiến phương án này khó thực hiện.
Vì những rủi ro trên, trong nhiều năm, các nhà khoa học đã tìm kiếm giải pháp thay thế đỉa. Những nỗ lực ban đầu bắt nguồn từ thế kỷ 19 khi nhu cầu sử dụng đỉa trong y tế tăng cao ở châu Âu nhưng loài này dần trở nên khan hiếm.
Đơn cử, năm 1817, nhà giải phẫu học và sinh lý học người Pháp Jean-Baptiste Sarlandière, đã phát triển thiết bị bdellometer dùng để rút máu từ bệnh nhân.
Tuy nhiên, xét về phương diện thay thế cơ học sẵn sàng sử dụng ở người, hiện chưa có nghiên cứu nào vượt qua được phương pháp sử dụng đỉa. Hiện nay, những ký sinh trùng hút máu này vẫn tiếp tục giữ vai trò quan trọng trong nền y học hiện đại.
Theo NatGeo