Nguyễn Thị Thanh Hoa (quận 10, TP HCM) hỏi: Trong thời gian kết hôn, ba má chồng có cho vợ chồng tôi một căn nhà. Căn nhà cũng đã sang tên cho chồng tôi. Hiện vợ chồng tôi phát sinh mâu thuẫn, khi ly hôn, tôi có được hưởng tài sản là căn nhà đã được ba má chồng cho?
Luật sư Nguyễn Hải Nam, Đoàn Luật sư tỉnh Bình Phước, trả lời: Điều 33 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 quy định: Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng và thu nhập hợp pháp khác trong thời kỳ hôn nhân..., tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung; quyền sử dụng đất mà vợ, chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng, trừ trường hợp vợ hoặc chồng được thừa kế riêng, được tặng cho riêng hoặc có được thông qua giao dịch bằng tài sản riêng.
Tài sản chung của vợ chồng thuộc sở hữu chung hợp nhất, được dùng để bảo đảm nhu cầu của gia đình, thực hiện nghĩa vụ chung của vợ chồng. Trong trường hợp không có căn cứ để chứng minh tài sản mà vợ, chồng đang có tranh chấp là tài sản riêng của mỗi bên thì tài sản đó được coi là tài sản chung.
Như vậy, trường hợp của bạn, nếu nhà ba má chồng tặng cho riêng chồng bạn và chồng bạn có những căn cứ pháp lý chứng minh được là cho riêng (ví dụ hợp đồng tặng cho) thì đây được coi là tài sản riêng của chồng bạn.
Trong trường hợp nếu chồng bạn không chứng minh được, hoặc hợp đồng tặng cho của ba má chồng không nêu rõ căn nhà này tặng riêng cho chồng bạn, thì căn nhà này sẽ được xác định là tài sản chung giữa hai vợ chồng.
Do đó, trường hợp bạn ly hôn, nếu đã xác định được đây là tài sản riêng của chồng thì căn nhà này vẫn thuộc về chồng bạn, bạn không được quyền chia tài sản. Trường hợp chồng bạn không chứng minh được là tài sản riêng thì xác định là tải sản chung của hai vợ chồng, khi đó, căn nhà sẽ được chia theo nguyên tắc chia đôi.