Đôi nét về viagra
Theo trang thông tin y học Mỹ Healthline (HLC), viagra là phiên bản biệt dược của thuốc gốc sildenafil, sản phẩm của hãng Pfizer, (Mỹ) bào chế được thương phẩm dưới tên gọi Viagra, Revati... Đây là một chất ức chế phosphodiesterase type 5 (PDE5). PDE5 thực chất là enzym điều chỉnh một số hóa chất trong máu của con người, khiến cương cứng khó có thể đạt được.
Vào năm 1992, tại thành phố Mertir Tidefeel, xứ Wales (Anh), viagra được nghiên cứu để điều trị cao huyết áp.
Trong quá trình thử nghiệm người ta đã phát hiện ra một hiệu ứng phụ của nó, làm tăng độ cương cứng của dương vật người dùng. Sildenafil hoạt động bằng cách ức chế phosphodiesterase type 5 đặc trưng (phosphodiesterase 5, PDE5), một enzyme thúc đẩy sự thoái hóa cGMP, điều hòa lưu lượng máu trong dương vật
Viagra được sử dụng để điều trị rối loạn cương dương (ED) và tăng huyết áp động mạch phổi. Công thức hóa học C22H30N6O4S, là chất màu trắng ngà, bột tinh thể, trọng lượng phân tử 666,7.
Khả năng hòa tan 2,6mg/ml (ở 25 độ C).Mặc dù giúp phái mạnh duy trì sự cương cứng tạm thời cho quan hệ tình dục, nhưng nó không chữa được ED. Nó cũng không ảnh hưởng đến ham muốn tình dục, nên người ta cần kích thích tinh thần hoặc thể chất để có được sự cương cứng thực sự. Riêng đối với phụ nữ, hiệu quả điều trị rối loạn chức năng tình dục chưa được chứng minh.
Tác dụng phụ thường gặp bao gồm đau đầu và ợ nóng, cũng như da đỏ bừng. Tác dụng phụ hiếm gặp nhưng nghiêm trọng bao gồm cương cứng kéo dài, có thể dẫn đến tổn thương dương vật và mất thính lực đột ngột. Không nên dùng Sildenafil cho những người dùng nitrat như nitroglycerin (glyceryl trinitrate), có thể dẫn đến giảm huyết áp nghiêm trọng và khả năng gây tử vong.
Theo các chuyên gia của Pfizer, ban đầu, Pfizer đã phát hiện ra sildenafil như một phương pháp điều trị các chứng rối loạn tim mạch khác nhau. Đến năm 1998, sildenafil đã được điều trị phổ biến cho rối loạn cương dương. Đối thủ cạnh tranh chính của nó là tadalafil (tên thương mại là Cialis) và vardenafil (Levitra).
Nhóm người huyết áp thấp, viêm võng mạc trước khi dùng Viagra nên cần có tư vấn của bác sỹ.
Viagra có tác dụng tốt với người yếu sinh lý nói chung, tổn thương cột sống, tủy sống, yếu sinh lý do vấn đề tâm lý.
Hiệu quả của Viagra đạt tới 80%, trung bình 1 viên Viagra là 100 mg. Nên thử với 50 mg, nếu tác dụng thì thử dùng liều lượng thấp hơn, 25 mg. Nếu không có tác dụng thì hãy thử với 100 mg. Viagra có tác dụng trong 1 ngày (24h), do đó, không nên dùng 2 viên trong 1 ngày. Viagra không có tác dụng trong ngày hôm sau.
Những người bị bệnh tim hoặc các bệnh đang điều trị bằng thuốc có nitrat không nên dùng Viagra, có thể gây giảm lưu lượng máu kéo dài và nghiêm trọng ở các động mạch vành vốn đã hẹp nhiều. Người bị huyết áp cao hay thấp, bị viêm võng mạc sắc thì nên tham vấn bác sĩ trước khi dùng Viagra.
Những mặt trái bất lợi của Viagra
- Gây giảm thính lực
Theo cảnh báo của Cơ quan Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Mỹ (FDA), Viagra không chỉ gây điếc đột ngột 1 tai mà đôi khi còn điếc cả hai nếu lạm dụng dài kỳ, nhất là ở nhóm người cao tuổi. Bằng chứng, tỷ phú người Mỹ Hugh Hefner, người sáng lập kiêm giám đốc tạp chí Playboy qua đời tháng 9/2017 ở tuổi 91 tuổi, là một người “đệ tử” rất trung thành của Viagra.
Điều này được chính Crystal Harris vợ của Hefner tiết lộ, ban đầu Hefner khó nghe nhưng sau điếc nặng. Chính tác dụng phụ này mà từ lâu FDA đã cảnh báo người dùng, trước khi sử dụng nên cân nhắc giữa cái được và mất. Theo Crystal Harris, lúc đầu chồng bà bị nghễnh ngãng ở một bên tai, xuất hiện tiếng réo như chuông kêu nên phải sử dụng máy trợ thính.
FDA đã dẫn chứng kết quả một nghiên cứu trong năm 2007 về tác động của Viagra và cảnh báo mặt trái của loại thần dược này, đặc biệt là gây suy giảm thính lực. Đây là tác dụng kép, khi Viagra thường dùng cho nhóm người trung cao tuổi do mắc bệnh suy giảm cương cứng nhưng cũng là nhóm người rất dễ suy giảm thích lực vì tuổi tác gây ra.
Cùng với sự mất thính giác, Viagra còn gây chứng ù tai, kiểu như tiếng chuông réo trong tai. Kể cả nhóm dùng Cialis và Levitra (giống như Viagra). Các nguy cơ khác của Viagra bao gồm mất thị lực, khó tiêu, sổ mũi, nhạy cảm với ánh sáng, nhức đầu, ngất xỉu và chóng mặt. Nguyên nhân gây mất thính giác của Viagra đến nay khoa học chưa chứng minh được.
- Đối với hệ tuần hoàn
Phải nói ngay rằng để tạo ra sự cương cứng, cơ thể phải qua một “chuỗi sự kiện cực kỳ tỉ mỉ”. Nó bắt đầu với các tín hiệu kích thích từ não và tất cả đều phụ thuộc vào lưu lượng máu đến dương vật. Trong dương vật có hai khoang được gọi là thể hang. Nitric oxide (NO) được giải phóng trong các khoang trong quá trình kích thích tình dục. NO kích hoạt một enzym gọi là guanylate cyclase. Điều đó làm tăng nồng độ guanosine monophosphate chu kỳ (cGMP) khiến cơ bắp thư giãn.
Các khoang cũng chứa một mạng lưới các mạch máu. Khi các mạch máu này giãn ra và mở rộng, máu sẽ dồn vào. Kết quả là áp lực chính là tác nhân gây ra sự cương cứng. PDE5 có thể làm giảm tác dụng của cGMP. Viagra hoạt động bằng cách ức chế PDE5, nó nhanh chóng được hấp thu vào máu. Nồng độ tối đa đạt được trong vòng khoảng một giờ.
Viagra cũng có thể làm giảm huyết áp, đặc biệt là một đến hai giờ sau khi uống. Nếu bị huyết áp thấp, cần tư vấn bác sĩ trước khi dùng Viagra. Đối với hầu hết mọi người, hoạt động tình dục được xem tốt cho sức khỏe tim mạch. Tuy nhiên, nếu bị bệnh tim mạch, bạn tư vấn i bác sĩ xem dùng Viagra có an toàn không. Cũng nên tránh dùng Viagra nếu bác sĩ khuyến cáo không nên quan hệ tình dục, không nên dùng Viagra nếu có tiền sử đột quỵ hoặc đau tim hoặc đau thắt ngực. Một số tương tác thuốc cũng có thể gây hại cho tim, tránh dùng chất ức chế PDE5 nếu sử dụng thuốc chẹn alpha kéo dài hoặc dùng thuốc có chứa nitrat.
- Đối với hệ sinh sản
Viagra có thể khá hiệu quả, nhưng không phải là “viên đạn thần”. Nó không làm cho ham muốn tình dục tăng lên, vì vậy vẫn cần một số loại kích thích để có được sự cương cứng thực sự. Hiệu ứng của Viagra thường kéo dài 4 giờ, mặc dù chúng có thể kéo dài hơn ở một số người. Một tác dụng phụ hiếm gặp nhưng nghiêm trọng là hội chứng priapism. Hội chứng Priapism (Cương cứng kéo dài) là một tình trạng cương cứng dương vật không tự chủ, không liên quan đến kích thích tình dục và không được giải phóng bằng cách xuất tinh. Tình trạng này cần cấp cứu về mặt tiết niệu và can thiệp sớm cho để phục hồi chức năng.
Mọi người cũng nên cảnh giác với thuốc ức chế PDE5 nếu có bất thường về giải phẫu dương vật. Một khi mắc bệnh Peyronie, bác sĩ có thể khuyên không nên dùng Viagra. Viagra chỉ là biện pháp khắc phục tạm thời và không chữa được ED, nó cũng không bảo vệ khỏi các bệnh lây nhiễm qua đường tình dục.
- Hệ thống thần kinh trung ương
Viagra giúp cải thiện lưu lượng máu đến dương vật, nhưng não vẫn là “cơ quan tình dục quan trọng nhất”. Viagra sẽ không có tác dụng nếu không có tâm trạng. Tránh dùng chất ức chế PDE5 nếu có tiền sử bệnh về mắt, có tên bệnh thần kinh thị giác không do thiếu máu cục bộ trước động mạch (NAION). NAION được đặc trưng bởi sự gián đoạn lưu lượng máu đến dây thần kinh thị giác. Nếu bạn bị giảm thính lực, thị lực sau khi dùng Viagra, hãy nên tìm trợ giúp y tế ngay lập tức.
- Hệ bài tiết và tiêu hóa
Viagra được thương phẩm dưới dạng viên nén bao phim. Viagra có thể dùng cùng với thức ăn hoặc không, tốt nhất là nên uống khoảng một giờ trước khi dự định quan hệ tình dục. Phần lưu lại của thuốc sẽ được rửa trôi qua đường nước tiểu. Một tác dụng phụ khá phổ biến của Viagra là khó tiêu hoặc khó chịu ở dạ dày. PDE5 đôi khi còn gây tình trạng buồn nôn hoặc nôn.