Hà Nội đặt mục tiêu hoàn thiện hơn 400km đường sắt đô thị trong 12 năm tới
Thông tin tại Hội nghị tổng kết năm 2023, triển khai nhiệm vụ năm 2024 của Bộ Giao thông Vận tải vào sáng 28/12, ông Dương Đức Tuấn, Phó chủ tịch UBND TP Hà Nội Dương Đức Tuấn nhấn mạnh việc phát triển vận tải hành khách công cộng khối lượng lớn được xác định là ưu tiên hàng đầu để giải quyết tình trạng ùn tắc giao thông đang diễn ra tại TP hiện nay, trong đó việc phát triển mạng lưới đường sắt đô thị.
Theo quy hoạch hiện nay, Hà Nội có 10 tuyến đường sắt đô thị (9 tuyến chính và 1 tuyến nối các đô thị vệ tinh), với tổng chiều dài 417,8km (trong đó 75,6km đi ngầm), tổng mức đầu tư dự kiến trên 40 tỷ USD. Tuy nhiên, thực tế TP mới chỉ hoàn thành 13km (tuyến 2A, đoạn Cát Linh - Hà Đông) và đang thi công 12,5km (tuyến 3 đoạn Nhổn – ga Hà Nội).
Để hoàn thành được 404,8km còn lại trong 12 năm tới (đến năm 2035) kinh phí cần bố trí thực hiện là khoảng 37 tỷ USD (tương đương khoảng 850 nghìn tỷ đồng).
Ông Tuấn cho biết, để triển khai thực hiện có hiệu quả, khắc phục tồn tại, vượt qua các khó khăn, thách thức, trong thời gian tới TP Hà Nội sẽ tập trung tổ chức thực hiện hoàn thành: Luật Thủ đô sửa đổi; Rà soát điều chỉnh tổng thể đồ án quy hoạch chung xây dựng thủ đô; Quy hoạch Thủ đô Hà Nội thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050. Sau khi quy hoạch chung xây dựng Thủ đô điều chỉnh được cấp có thẩm quyền phê duyệt, sẽ tổ chức triển khai ngay việc lập, trình thẩm định phê duyệt điều chỉnh đồ án quy hoạch GTVT Thủ đô nhằm đảm bảo đồng bộ, thống nhất giữa các quy hoạch và làm cơ sở cho việc định hướng phát triển ngành.
Cùng đó, khẩn trương nghiên cứu, trình các cấp có thẩm quyền phê duyệt Đề án tổng thể đầu tư xây dựng hệ thống đường sắt đô thị TP Hà Nội để thực hiện Kết luận số 49 của Bộ Chính trị về việc cơ bản hoàn chỉnh mạng lưới đường sắt đô thị tại TP Hà Nội vào năm 2035.
Tiếp tục đẩy mạnh nghiên cứu khoa học và ứng dụng công nghệ trong quản lý, triển giao thông đô thị (triển khai hệ thống giao thông thông minh); ưu tiên phát triển vận tải hành khách công cộng, đặc biệt là các loại hình vận tải nhanh, khối lượng lớn; Xây dựng hệ thống bản đồ số trực tuyến; hệ thống vé thông minh, vé liên thông đa phương thức các loại hình vận tải hành khách công cộng.
Tiếp tục đẩy nhanh tiến độ các dự án công trình trọng điểm trên địa bàn TP đảm bảo đáp ứng tiến độ yêu cầu (trong đó có việc chuẩn bị đầy đủ các điều kiện để đưa vào khai thác vận hành thương mại đoạn đường sắt đô thị trên cao Nhổn - ga Hà Nội tới đây.
Ngoài ra, cũng tổ chức rà soát, lựa chọn danh mục công trình hạ tầng giao thông cấp bách, trọng điểm tập trung để tập trung triển khai đầu tư hoàn thành và đưa vào khai thác sử dụng theo từng giai đoạn đảm bảo tính khả thi. Đối với việc phát triển mạng lưới đường sắt đô thị ưu tiên tập trung đầu tư dứt điểm theo tuyến đảm tính động bộ trên toàn tuyến và đảm bảo đồng bộ trên toàn tuyến, đảm bảo khớp nối với các loại hình vận tải công cộng khác, phát huy hiệu quả đầu tư với các tuyến đang triển khai.
Trước mắt tiếp tục tập trung cân đối nguồn lực từ ngân sách thành phố để đầu tư, bên cạnh đó để đảm bảo có đủ nguồn lực đầu tư cần xây dựng phương án, cơ chế chính sách để đa dạng nguồn vốn phục vụ thực hiện các dự án giao thông khung theo quy hoạch, kể cả vốn từ ngân sách, vốn vay ODA, vay từ các tổ chức tài chính, tín dụng như ngân hàng, huy động nguồn bằng việc phát hành trái phiếu, đấu giá quyền sử dụng đất đất, cổ phần hóa doanh nghiệp, tiếp tục tháo gỡ vướng mắc và kêu gọi đầu tư theo hình thức PPP ( BT, BOT...), xã hội hóa đầu tư.
Nghiên cứu, xây dựng đề xuất cơ chế, chính sách đặc thù riêng về huy động nguồn lực cho đầu tư các tuyến đường sắt đô thị, trong đó có việc triển khai xây dựng cơ chế đầu tư và hình thức đầu tư TOD, khai thác quỹ đất tại các nhà ga của các tuyến đường sắt đô thị... để tạo nguồn lực dành cho đầu tư xây dựng, quản lý khai thác vận hành các tuyến đường sắt đô thị.
Song song với đó, tiếp tục cải cách đơn giản hóa thủ tục hành chính rút ngắn thời gian giải quyết từ khâu quy hoạch, chuẩn bị dự án, thiết kế đến thẩm định, phê duyệt và giải phóng mặt bằng. Xác định rõ người, rõ việc, rõ quy trình, rõ tiến độ, rõ hiệu quả của từng cấp, từng ngành, cá nhân, người đứng đầu trong giải quyết công việc; nâng cao hiệu quả quản lý, rà soát, đánh giá, rút kinh nghiệm để tổ chức thực hiện có hiệu quả.
Thực hiện nhiều giải pháp trong công tác giải phóng mặt bằng, nâng cao trách nhiệm của chính quyền địa phương các cấp trong công tác quản lý đất đai, quy hoạch để tạo điều kiện thuận lợi cho việc giải phóng mặt bằng; tăng cường công tác kiểm tra, giám sát toàn diện các lĩnh vực.
TP HCM đặt mục tiêu hoàn thành 200km đường sắt đô thị vào năm 2035
Phát biểu tại Hội nghị về mục tiêu phát triển đường sắt trong 12 năm tới, Phó chủ tịch UBND TP HCM Bùi Xuân Cường cho biết, ở thời điểm hiện tại, TP HCM đang tập trung quy hoạch mạng lưới đường sắt đô thị.
Bên cạnh cơ chế được cho phép tại Nghị quyết 98 của Quốc hội, TP HCM cũng đang tập trung xây dựng đề án phát triển kết cấu đường sắt đô thị đến đến 2035 với mục tiêu hoàn thành 200km.
Luật Đường sắt sửa đổi khi được cập nhật nội dung liên quan đến đường sắt đô thị sẽ là cơ sở quan trọng để định hướng cho mạng lưới đường sắt đô thị của TP HCM nói riêng phát triển.
Thông tin trên báo Thanh niên cho biết, theo quy hoạch 10 năm trước, TP HCM đầu tư 8 tuyến ĐSĐT và 3 tuyến xe điện mặt đất hoặc đường sắt một ray với tổng chiều dài khoảng 220 km, tổng vốn đầu tư ước hơn 25 tỉ USD. Dù vậy đến nay, TP.HCM mới có tuyến ĐSĐT số 1 (Bến Thành - Suối Tiên) dài 19,7 km dự kiến hoàn thành cuối năm 2023 và tuyến số 2 (Bến Thành - Tham Lương) khởi công năm 2024, hoàn thành năm 2032. Các tuyến khác mới chỉ dừng lại ở công tác chuẩn bị đầu tư và kêu gọi đầu tư.
Trong khi đó, Kết luận 49 của Bộ Chính trị đặt mục tiêu đến năm 2035 phải hoàn chỉnh mạng lưới ĐSĐT tại TP HCM. Ban Cán sự Đảng UBND TP HCM đánh giá việc hoàn thành 200 km ĐSĐT trong 12 năm tới là một mục tiêu, thách thức rất lớn.
Mục tiêu lớn nhưng TP HCM cũng có thuận lợi khi Nghị quyết 98/2023 của Quốc hội cho phép thí điểm mô hình phát triển đô thị theo định hướng giao thông công cộng (TOD) ở vùng phụ cận nhà ga các tuyến đường sắt. Đây là điều kiện pháp lý để huy động tối đa nguồn lực từ đất đai, tạo nguồn ngân sách để xây dựng hệ thống ĐSĐT. Ngoài ra, Nghị quyết 98 cũng cho phép huy động nguồn vốn đầu tư qua phát hành trái phiếu chính quyền địa phương, nguồn vay nước ngoài của Chính phủ cho vay lại… tạo điều kiện cho TP HCM bứt phá.