Trong số những công cụ gây ảnh hưởng đó có thể dẫn ra 3 công cụ (chính xác hơn là sức mạnh) cơ bản của Mỹ.
Trước hết, đó là sức mạnh của nền kinh tế Mỹ - kinh tế của rất nhiều nước trên thế giới có mối quan hệ trực tiếp và chặt chẽ với nền kinh tế Mỹ; tiếp theo là hệ thống tài chính Mỹ. Và sau nữa, thứ ba - nước Mỹ có một quân đội được xếp vào loại mạnh nhất thế giới.
Nước Mỹ dẫn đầu về ngân sách quân sự và dĩ nhiên vì thế nên có ưu thế vượt trội về kỹ thuật (quân sự) và nhiều ưu thế khác đối trước quân đội nước khác.
Trong các bảng xếp hạng khác nhau của nhiều tổ chức khác nhau, các lực lượng vũ trang Mỹ vẫn luôn được xếp ở vị trí hàng đầu.
Để có một cách nhìn khái quát nhất về Quân đội Mỹ qua các số liệu cụ thể, xin được cung cấp một số thông tin để bạn đọc tham khảo. Số liệu được dẫn từ “Bình luận quân sự” (Nga) năm 2015 và có đối chiếu với các nguồn khác.
1. Các số liệu chung
Một trong những đặc điểm chủ yếu của Các lực lượng vũ trang Mỹ là ngân sách dành cho chúng luôn chiếm kỷ lục trên thế giới.
Trong mấy năm trở lại đây Mỹ đã từng tìm cách cắt giảm ngân sách quốc phòng, tuy nhiên theo một số nguồn số liệu thì nước này đang có kế hoạch tăng lại ngân sách quân sự.
Trong năm tài chính 2014, đã có 610 tỷ đô la dành cho quốc phòng. Năm 2015, ngân sách có thấp hơn 2014 (569.3 tỷ đô la – theo một số nguồn ). Mặc dù vậy, trong bối cảnh hiện nay, quy mô ngân sách quốc phòng của Mỹ vẫn bỏ xa các đối thủ “bám sát nhất” như Nga và Trung Quốc.
Đó là về ngân sách, còn về quân số, theo số liệu của “The Military Balance”, năm 2014 có 1.492.200 quân nhân phục vụ trong Các lực lượng vũ trang Mỹ. Ngoài ra, còn có 14.000 vị trí do các chuyên gia dân sự đảm nhiệm. Trong trường hợp cần thiết, Lầu Năm Góc có thể huy động lực lượng dự bị với quân số 843.750 người.
Công dân Hoa Kỳ có thể gia nhập quân đội từ năm 18 tuổi (hoặc từ 17 tuổi nếu được cha mẹ hoặc người bảo hộ cho phép). Độ tuổi tối đa của các “ứng cử viên” nhập ngũ tùy thuộc vào từng quân (binh) chủng. Ví dụ, Lục quân Mỹ chỉ nhận những người có độ tuổi không quá 35, Quân đoàn lính thủy đánh bộ - những người không quá 28 tuổi.
Với dân số hơn 316 triệu người (số liệu năm 2015) Mỹ có một tiềm lực động viên rất lớn. Theo những số liệu có được, con số những người đủ điều kiện phục vụ trong quân đội của Mỹ là gần 120 triệu người.
2. Lục quân Mỹ (US Army)
Tổng quân số của Lục quân (tính cả Lục quân của Lực lượng vệ binh quốc gia) – 586.700 người. Ngoài ra, lực lượng dự bị cho Lục quân là 528.500 người. Như vậy, US Army (Lục quân Mỹ) là cơ cấu có số quân đông nhất trong thành phần Các lực lượng vũ trang Mỹ.
Quân số và phương tiện kỹ thuật của Lục quân được phân bố giữa một số các cơ cấu với các chức năng khác nhau. Chịu trách nhiệm tiến hành trinh sát phục vụ Lục quân có các trung đoàn kỵ binh số 2 và số 3 (cách gọi truyền thống), 03 lữ đoàn trinh sát. Có 05 sư đoàn “hạng nặng” được trang bị các loại phương tiện kỹ thuật bọc thép các kiểu khác nhau, pháo tự hành và v.v..
Các sư đoàn bộ binh số 2 và số 25 thuộc lớp “sư đoàn hạng trung” và có biên chế tương thích. Chúng (các sư đoàn số 2 và số 25) có các phương tiện vận tải và hỗ trợ hỏa lực cùng các phương tiện kỹ thuật khác. Còn có một sư đoàn bộ binh hạng nhẹ. Bộ đội đổ bộ có các sư đoàn số 82 và 101 và lữ đoàn số 173.
Lực lượng thực hiện các nhiệm vụ hỗ trợ (đảm bảo) trong Lục quân Hoa Kỳ là 2 lữ đoàn máy bay lên thẳng, 7 lữ đoàn pháo binh, 5 lữ đoàn công binh, 3 lữ đoàn Logistc (hậu cần) và các phân đội khác.
Lục quân Vệ binh quốc gia có quân số 20.000 người. Số lượng quân nhân dự bị của Vệ binh quốc gia là hơn 330.000 người. Vì có chức năng khác nên số lượng các đơn vị, phân đội của Lục quân Vệ binh quốc gia ít hơn so với Các lực lượng vũ trang.
Cụ thế, Vệ binh quốc gia chỉ có 7 lữ đoàn tăng thiết giáp và 3 lữ đoàn bộ binh “hạng nặng”. Chỉ có 1 lữ đoàn bộ binh cơ giới “hạng trung” , còn các lữ đoàn “hạng nhẹ“ – có 20 lữ đoàn. Lục quân Vệ binh quốc gia còn có 13 lữ đoàn máy bay lên thẳng, 7 lữ đoàn pháo binh, 8 lữ đoàn công binh và nhiều đơn vị, phân đội khác.
Lục quân Mỹ có một khối lượng rất lớn các phương tiện kỹ thuật- khí tài quân sự đa dạng về chủng loại. Đến năm 2014, trong các đơn vị của Lục quân có 2.338 xe tăng M1 Abrams đang được khai thác. Còn gần 3.500 chiếc M1 Abrams nữa đang được niêm cất, bảo quản.
Có 1.928 xe trinh sát các loại, phần lớn trong số đó (hơn 1.000 xe) là phương tiện kỹ thuật trên khung gầm Stryker. Phương tiện vận tải có 4.559 xe chiến đấu bộ binh M2 và M3 Bradley. Còn khoảng 2.000 chiếc M2 và M3 Bradley đang được bảo quản trong các kho.