Thừa nhận sự thật sát thủ tàu sân bay Nga thua Mỹ

Lê Hùng – Nguyễn Hoàng |

Xin được giới thiệu tiếp một bài của TS Khoa học quân sự Nga Konstan tin Sivkov về một vấn đề nữa không mấy vui vẻ của Hải quân Nga.

Thời gian gần đây một số phương tiện thông tin đại chúng đã “phong tặng” danh hiệu “sát thủ tàu sân bay Mỹ” cho một số tàu của Hải quân Nga.

Biệt danh này đã xuất hiện trên nhiều tờ báo và cả trên các chương trình truyền hình.

Có cảm giác như là một chiếc tàu nổi hoặc một chiếc tàu ngầm đơn lẻ nào đó của Nga cũng có thể tiêu diệt được tàu sân bay, còn đối với Hải quân Nga, việc đánh bại một cụm tàu sân bay (tàu sân bay luôn được nhiều tàu bảo vệ đi kèm - một đội hình gồm tàu sân bay và các tàu bảo vệ được gọi là “ cụm tàu sân bay tấn công ”) là một nhiệm vụ tương đối dễ dàng.

Tuy nhiên, mọi việc hoàn toàn không đơn giản như vậy.

Trước hết, hãy nói về chính bản thân các “sát thủ tàu sân bay”. Biệt danh như trên được gắn cho các tàu tuần dương mang tên lửa dự án 1164.

Ngoài những tàu này ra, các “chuyên gia” còn đưa vào danh sách “sát thủ” tàu tuần dương mang tên lửa hạng nặng dự án 1144 (nổi tiếng nhất trong số đó là “ Petr Veliki” ( Piot Đại đế)- trên ảnh), cũng như tàu ngầm tên lửa dự án 949A (trở nên nói tiếng nhờ thảm kịch của tàu ngầm “Kursk”).

Thừa nhận sự thật sát thủ tàu sân bay Nga thua Mỹ - Ảnh 1.

Tàu tuần dương nguyên tử mang tên lửa “ Petr Veliki” (Piot Đại đế). Ảnh: Lev Fedoseev)

Chúng ta hãy phân tích xem liệu một tàu tuần dương mang tên lửa trong đội hình một cụm 2-3 tàu (đây là đội hình thường thấy của Hải quân Nga hiện nay khi thực hiện nhiệm vụ hỗ trợ nền ngoại giao Nga và để “thể hiện sức mạnh”) hoặc một chiếc tàu ngầm dự án 949A có thể tiêu diệt hoặc chí ít là loại khỏi vòng chiến đấu một chiếc tàu sân bay của Mỹ hay không?

Đội hình chuẩn của một cụm tàu sân bay tấn công (Mỹ) thường như sau:

Một chiếc tàu sân bay (phần lớn là tàu kiểu “Nimitz”), 6-8 tàu nổi bảo vệ, trong đó có 2-3 tàu tuần dương mang tên lửa lớp “Ticonderoga”, 2-3 tàu khu trục mang tên lửa có điều khiển kiểu “Arleigh Burke” và 2-3 tàu ngầm nguyên tử, chủ yếu là kiểu “Los Angeles”.

Thành phần chuẩn theo biên chế của Lực lượng không quân trên tàu sân bay có -48 máy bay cường kích- tiêm kích F/A-18C và D, 10 máy bay chống ngầm “Viking”, 4-6 máy bay tiếp dầu, cũng khoảng 4-6 máy bay tác chiến điện tử, 4 máy bay trinh sát, 4 máy bay tuần tiễu radar và điều khiển kiểu E-2C “ Hawkeye”, 10-16 máy bay lên thẳng chống ngầm và tìm kiếm – cứu nạn.

Các tàu tuần dương và khu trục mang tên lửa có điều khiển là hệ thống phòng thủ chủ yếu của cụm tàu sân bay tấn công Mỹ, chúng có các phương tiện phòng không, chống ngầm và tác chiến điện tử rất mạnh.

Khi giải quyết nhiệm vụ tác chiến chống các tàu nổi của đối phương, cụm tàu sân bay tấn công (Mỹ) có thể sử dụng không quân trên tàu với khoảng gần 40 chiếc tấn công mục tiêu ở cự ly (cách cụm tàu sân bay) đến 600-800 km và tấn công bằng tên lửa có cánh “Tomahawk” ở cự ly 500-600 km từ trung tâm đội hình cụm tàu, mỗi lần phóng vài chục tên lửa như vậy.

Chiều sâu tuyến phòng thủ chống ngầm của cụm tàu sân bay nếu tính từ chính tàu sân bay sẽ là khoảng 600 km hoặc hơn, tuyến phòng không sẽ đến 700 km tính từ trung tâm đội hình .

Xét tổng thể, cụm tàu sân bay tấn công Mỹ là một tổ hợp tác chiến đồng bộ, trong đó các lực lượng và phương tiện khác nhau hoạt động dưới sự điều khiển của một hệ thống tự động hóa thống nhất, giải quyết đồng thời tất cả các nhiệm vụ được giao, kể cả tấn công lẫn phòng thủ.

Một cuộc hải chiến với tàu sân bay có “quy trình“ như thế nào?

Để có thể tiêu diệt (đánh chìm) tàu sân bay trong đội hình cụm tàu sân bay tấn công, cụm tàu nổi của chúng ta (Nga) trong đó có một tàu tuần dương mang tên lửa - hoặc chỉ một tàu ngầm phải:

Đảm bảo phát hiện kịp thời cụm tàu sân bay tấn công và phân loại cụm tàu này, tiếp cận chúng đến cự ly có thể phóng tên lửa, nhận chỉ thị mục tiêu xác định vị trí của tàu sân bay trong đội hình cụm tàu và phóng tên lửa, - các tên lửa được phóng nếu chọc thủng được hệ thống phòng không và tác chiến điện tử của cụm tàu (Mỹ) sẽ tiêu diệt tàu sân bay.

Chúng ta hãy xem xét khả năng hiện thực hóa tất cả "quy trình" trên.

Khả năng tiến hành trinh sát của chính bản thân cụm tàu (Nga) gồm một tàu tuần dương mang tên lửa và 1 đến 3 tàu bảo vệ chỉ hạn chế trong giới hạn đường chân trời sóng vô tuyến. Có nghĩa là chỉ vài chục km.

Các máy bay lên thẳng trên tàu không mấy thích hợp cho việc phát hiện đối phương trên các khu vực có diện tích lớn do số lượng các máy bay như vậy trên tàu rất ít (tối đa là 2 máy bay lên thẳng trên một tàu lớn) và bán kính hoạt động hạn chế.

Chúng chỉ hoạt động hiệu quả khi chỉ mục tiêu – nhưng ở cự ly vừa phải và như vậy không tận dụng hết tầm bắn của tên lửa.

Khả năng của các tàu ngầm mang tên lửa dự án 949A tiến hành trinh sát tốt hơn nhiều. Chúng có thể sử dụng trang thiết bị thủy âm phát hiện tiếng ồn của cụm tàu sân bay ở cự ly hơn 100 hải lý.

Có nghĩa là khi tàu ngầm (Nga) đang có mặt tạị tuyến phòng thủ chống ngầm từ xa của cụm tàu sân bay – tức tại khu vực có xác xuất nhất định (tuy không lớn) tiêu diệt được cụm tàu (sân bay) này .

Tuy nhiên, phân loại và đặc biệt là xác định đội hình chiến đấu của đối phương để phát hiện mục tiêu chủ yếu ở một cự ly như vậy là không thể. Cần phải đến được khu vực chỉ cách đối phương vài chục hải lý. Có nghĩa là tiến vào vùng chống ngầm tuyến giữa của cụm tàu đối phương, nơi xác xuất tiêu diệt cụm tàu này là lớn hơn nhiều.

Vào thời Xô Viết, Hạm đội Liên Xô khi thực hiện nhiệm vụ chống lại các cụm tàu sân bay của đối phương được hỗ trợ bởi một hệ thống trinh sát và chỉ mục tiêu, bao gồm cả thành tố trên vũ trụ rất mạnh. Hệ thống này cho phép phát hiện và bám các binh đoàn tàu sân bay Mỹ ngay từ khi chúng mới rời khỏi căn cứ.

Hiện nay, những gì còn sót lại của hệ thống này chỉ là một số lượng hạn chế các tàu ngầm nguyên tử, vài chiếc máy bay của không quân trinh sát và một hệ thống trinh sát kỹ thuật vô tuyến yếu và Nga đã không còn một trung tâm (trinh sát – ví dụ như trung tâm trinh sát vô tuyến điện tử ở Lourdes tại Cu Ba-ND) nào ở nước ngoài.

Lực lượng hiện nay không đủ sức tiến hành trinh sát có hiệu quả ở các khu vực tác chiến quan trọng trên biển và trên các đại dương và càng không thể đảm bảo cung cấp các dữ liệu trinh sát cần thiết cho các binh đoàn của chúng ta để chúng tấn công có hiệu quả các cụm tàu sân bay của đối phương.

Khả năng của cụm tàu sân bay (Mỹ) lại hoàn toàn khác, nó có khả năng tự kiểm soát khoảng không gian và không gian trên mặt biển có chiều sâu đến 800 km hoặc hơn .

Với một ưu thế như vậy, cụm tàu sân bay tấn công sẽ không để các tàu tuần dương mang tên lửa của chúng ta (Nga) tiếp cận đến cự ly phóng tên lửa, mà trước đó có thể tấn công tàu tuần dương Nga bằng không quân trên tàu hoặc các tên lửa tầm xa mà không bị trừng phạt.

Tuy nhiên, thậm chí cả trong trường hợp một cụm tàu của chúng ta được cung cấp các thông tin trinh sát (tình báo) cần thiết, nó cũng phải tiến đến gần cụm tàu sân bay ở một cự ly nhất định để có thể phóng tên lửa.

Do chiếm ưu thế về tầm xa sử dụng không quân trên tàu, nên đối phương sẽ sử dụng khoảng 40 chiếc máy bay, trong đó có 25 chiếc, mỗi chiếc mang 2 tên lửa "Harpoon" ( tên lửa chống tàu) để tấn công cụm tàu của ta. Các máy bay tấn công và tên lửa sẽ được các máy bay tác chiến điện tử hỗ trợ.

Trong những điều kiện như vậy, tổ hợp tên lửa phòng không mạnh nhất của cụm tàu Nga là Fort chỉ có thể tiêu diệt được một số quả tên lửa. Các phương tiện phòng thủ trên mỗi tàu, trong trường hợp tối ưu, cũng sẽ tiêu diệt được 1-2 tên lửa, một phần trong số tên lửa sẽ bị nhiễu làm bay chệch mục tiêu.

Kết quả là còn có khoảng 15 qủa tên lửa đánh trúng mục tiêu là các tàu của chúng ta. Và có thể khẳng định chắc chắn là các tàu Nga, kể cả tàu tuận dương mang tên lửa sẽ bị đánh chìm với một xác suất rất cao.

Nếu như số tên lửa như vậy là chưa đủ để đánh chìm tàu Nga, đòn tấn công có thể được lặp lại.

Có nghĩa là cụm tàu của chúng ta thậm chí không thể đến được vị trí có thể phóng tên lửa.

Khả năng chống lại hệ thống phòng thủ đối phương của tàu ngầm mang tên lửa dự án 949A tốt hơn nhiều. Tuy nhiên, trong trường hợp này, xác xuất tàu ngầm bị tiêu diệt trước khi đến vị trí phóng lên lửa là tương đối lớn.

Cứ cho là tàu tuần dương mang tên lửa hoặc tàu ngầm mang tên lửa của chúng ta đến được vị trí phóng tên lửa và đã tấn công cụm tàu sân bay, thì cơ hội đánh chìm tàu sân bay cũng không nhiều.

Một loạt phóng 16 quả tên lửa (tàu tuần dương dự án 1164), 20 quả ( tàu tuần dương hạng nặng dự án 1144 ) hoặc 24 quả ( tàu ngầm hạt nhân dự án 949A) khó có thể chọc thủng được một hệ thống phòng không đa kênh được các máy bay tiêm kích tuần tiễu trên không bảo vệ và có các phương tiện tác chiến điện tử hiện đại hỗ trợ.

Sẽ có từ 2-3 tên lửa bị các máy bay tiêm kích bắn hạ . Mỗi một chiếc tàu tuần dương và khu trục mang tên lửa có điều khiển trong đội hình cụm tàu sân bay có thể hạ thêm vài tên lửa.

Nếu như tính rằng, số lượng các tàu có thể tham gia vào việc đánh trả đợt tấn công tên lửa là 3-4 chiếc hoặc hơn, thì có thể thấy rõ ngay rằng số tên lửa chưa bị đánh chặn chỉ còn lại khoảng vài quả và chúng sẽ bị các phương tiện phòng không của chính tàu sân bay tiêu diệt nốt hoặc các nhiễu vô tuyến điện tử làm "mù" .

Xác xuất dù chỉ một quả tên lửa "bắn trúng" mục tiêu là vô cùng thấp.

Như vậy, cần phải thừa nhận là thậm chí có phóng được một dàn tên lửa vào cụm tàu sân bay tấn công của Mỹ, khả năng tàu tuần dương mang tên lửa của Nga tiêu diệt được cụm tàu này là cực kỳ thấp. Còn nếu tính tới các yếu tố khác nữa – xác xuất này trên thực tế bằng không.

Chính vì vậy mà dứt khoát không thể "hào phóng" phong danh hiệu "sát thủ tàu sân bay" cho các tàu tuần dương mang tên lửa và tàu ngầm mang tên lửa có cánh Nga.

Để có thể đánh bại một cụm tàu sân bay tấn công, Hải quân của chúng ta (Nga) phải có một binh đoàn tàu chiến dịch đủ mạnh.

Số lượng tàu phải tương đương với số lượng tàu của cụm tàu sân bay tấn công Mỹ, tức: 2-3 chiếc tàu tuần dương mang tên lửa dự án 1164 và 1144 được 5 – 8 chiếc tàu lớp khu trục bảo vệ, một tàu chống ngầm cỡ lớn, một khinh hạm, 3-4 tàu ngầm mang tên lửa dự án 949 A, 4-5 chiếc tàu ngầm đa năng, với sự hỗ trợ của một sư đoàn không quân hải quân mang tên lửa hoặc của Không quân tầm xa với biên chế 3 trung đoàn, ít nhất một phi đội các máy bay trinh sát trên biển.

Đối với Hạm đội Phương Bắc cần tăng cường thêm một tàu sân bay dự án 1143.5. Nếu trang bị tàu này cho Hạm đội Phương Bắc, thành phần tác chiến của cụm tàu nổi tấn công có thể được cắt giảm từ 20-30 % .

Một binh đoàn (cụm tàu) như vậy có thể đánh bại một cụm tàu sân bay tấn công Mỹ và đánh chìm tàu sân bay trong đội hình cụm tàu.

Dĩ nhiên, cụm tàu Nga cũng sẽ chịu tổn thất nặng và sẽ cần phải khôi phục lại khả năng chiến đấu.

Nói ngắn gọn , không dễ gì " ăn sống nuốt tươi" được cụm tàu sân bay (Mỹ) .

Mỗi một hạm đội đại dương (HĐ Phương Bắc, HĐ Thái Bình Dương ..) của chúng ta (Nga) chỉ có thể thành lập một binh đoàn (cụm tàu) như vậy. Còn người Mỹ có thể sử dụng để chống lại mỗi binh đoàn tàu trên của Nga ít nhất là 4 cụm tàu sân bay tấn công.

Thực tế trên đồng nghĩa với việc Hải quân Nga hiện nay không thể giải quyết nhiệm vụ vô hiệu hóa mối đe dọa từ các cụm tàu sân bay tấn công của Mỹ, hoàn toàn khác với Hải quân Liên Xô trước kia - Hải quân Liên Xô đủ sức duy trì sự cân bằng về vũ khí hải quân với Mỹ ở mức có thể chấp nhận được .

Cái giá của "những cải cách thị trường" là như thế đó!

Đường dây nóng: 0943 113 999

Soha
Báo lỗi cho Soha

*Vui lòng nhập đủ thông tin email hoặc số điện thoại