Đó là nhận định của Kemal Kirişci, chuyên gia cao cấp về chính sách đối ngoại tại Viện Brookings (Mỹ).
Tính toán của Thổ Nhĩ Kỳ tại nước láng giềng của mình đã trải qua một số giai đoạn khác nhau. Khi cuộc biểu tình hòa bình đầu tiên nổ ra tháng 3/2011, quan hệ giữa Damascus và Ankara vẫn còn nồng ấm. Trong thực tế, mối quan hệ giữa hai nước được cải thiện sau khi Đảng khi Công lý và Phát triển (AKP) lên nắm quyền vào tháng 11/2002.
Ngay sau cuộc bầu cử, Thổ Nhĩ Kỳ đã trở thành một đối tác thương mại và ngoại giao lớn của Syria cùng với sự phát triển của một mối quan hệ gần gũi giữa Erdogan và Bashar al-Assad. Sự thân thiện này đã dẫn đến việc ông Erdogan hối thúc ông Assad thực hiện cải cách trên một số lĩnh vực với thiện chí đáng kể.
Khi tình hình ở Syria xấu đi, đặc biệt là trong tháng Ramadan vào mùa hè năm 2011, Ngoại trưởng Davutoglu đã tới Damascus với nhiệm vụ thuyết phục Tổng thống Assad dừng các cuộc đàn áp biểu tình nhưng bị thất bại. Kể từ đó, Thổ Nhĩ Kỳ đã thay đổi 180 độ trong mối quan hệ của mình với Syria.
Tháng 9/201, Thủ tướng Erdogan kêu gọi Assad công nhận Hội đồng Quốc gia Syria là đại diện chính thức của phe đối lập Syria. Điều này không chỉ khiến cả hai nước rút hết đại diện ngoại giao tại thủ đô mỗi nước mà các thỏa thuận tự do thương mại giữa hai bên cũng đã bị tạm dừng.
Chính phủ Thổ Nhĩ Kỳ, cũng giống như một vài quốc gia khác, ban đầu đã dự đoán sự sụp đổ của chế độ Assad trong vòng vài tháng. Đó là lý do vì sao tại thời điểm đó, Thổ Nhĩ Kỳ đã phản đối mọi hình thức can thiệp quân sự từ bên ngoài, mà chỉ đề nghị một lệnh trừng phạt kinh tế của LHQ.
Tuy nhiên, việc chính quyền Syria tiếp tục sử dụng bàn tay sắt để đàn áp phe nổi dậy, làn sóng người tị nạn Syria tràn qua biên giới vào Thổ Nhĩ Kỳ, và đặc biệt việc một chiếc máy bay quân sự của họ bị bắn rơi vào tháng 6/2012 ... đã khiến nước này phải xem xét lại các tính toán của mình. Thay vì phản đối sự can thiệp quân sự từ bên ngoài vào Syria, Thổ Nhĩ Kỳ bắt đầu lên tiếng về sự cần thiết của một cuộc can thiệp quân sự và cho rằng chỉ có như vậy mới dẫn đến sự thay đổi chế độ ở Syria.
Tháng 8/2012, ông Davutoglu đã nêu sáng kiến tại Hội đồng Bảo an LHQ về việc thiết lập một vùng cấm bay ở Syria, song vấp phải sự im lặng, thậm chí đã có không ít ý kiến phản đối. Như vậy, có thể thấy rõ Thổ Nhĩ Kỳ đã thất bại trong việc thuyết phục Mỹ và cộng đồng quốc tế tấn công quân sự chống Syria.
Sau sự kiện ngày 21/8 ở ngoại ô Damascus mà theo đánh giá của tình báo Mỹ khiến hơn 1.400 người bị thiệt mạng, ông Erdogan đã nhanh chóng bày tỏ sự ủng hộ sự can thiệp quân sự của Mỹ. Cả Thủ tướng và Ngoại trưởng Thổ Nhĩ Kỳ đều trông đợi sự sụp đổ của chế độ Assad, nhưng không nói rõ hình thức cũng như quy mô tham gia của Thổ Nhĩ Kỳ.
Trong một động thái nhằm kích động sự can thiệp quân sự, ông Erdogan đã lớn tiếng cáo buộc cộng đồng quốc tế và đặc biệt là phương Tây không cảm nhận được sự thống khổ của người dân Syria và kêu gọi sự can thiệp như NATO đã từng làm ở Kosovo năm 1999. Nhưng những lời kêu gọi trên của ông đã bị bỏ ngoài tai, khiến cho nước này cùng với hai đối tác khác là Arập Xêút và Qatar bị cô lập về vấn đề Syria và hy vọng sự ra đi của ông Assad đã biến mất, ít nhất là trong tương lai gần.
Giờ đây, Thổ Nhĩ Kỳ còn lâm vào tình trạng khó xử hơn khi yếu tố al-Qaeda xuất hiện ngày càng nhiều trong hàng ngũ lực lượng đối lập ở Syria, điều này khiến họ ngày càng nhận được ít sự ủng hộ hơn đối với các chính sách của mình tại Syria từ phía cộng đồng quốc tế. Ngay cả ở trong nước, trong một cuộc thăm dò dư luận hồi cuối năm 2012, có tới 43,5% người Thổ Nhĩ Kỳ được hỏi cho rằng nước này nên đứng ngoài cuộc xung đột tại Syria. Nay nếu được hỏi lại, chắc chắn tỷ lệ này còn cao hơn.
Riêng đề xuất của Thổ Nhĩ Kỳ yêu cầu Mỹ và các đồng minh trong khối NATO can thiệp quân sự vào Syria đã dẫn đến rất nhiều cuộc biểu tình ở trong nước phản đối chủ trương này. Theo kết quả một cuộc điều tra cách đây chưa lâu, có tới 72% người dân Thổ Nhĩ Kỳ phản đối hành động can thiệp quân sự từ bên ngoài vào Syria, cao hơn 10% so với tỷ lệ này tại Mỹ.
Trong bối cảnh hiện nay, tính toán của Thổ Nhĩ Kỳ cần phải thực tế hơn, tập trung vào giải quyết vấn đề người tị nạn tràn sang biên giới nước này và cuộc khủng hoảng nhân đạo ngày càng tăng tại Syria, trong khi phải đảm bảo rằng các nhóm Hồi giáo cực đoan không đe dọa an ninh của Thổ Nhĩ Kỳ. Đây mới là tính toán thực tế và khôn ngoan hơn nhiều so với việc theo đuổi cách tiếp cận nhằm lật đổ chế độ của Tổng thống Syria Assad.