Trước tiên và quan trọng nhất, các liên minh, đối tác an ninh và bảo hộ an ninh của Mỹ, cùng với việc duy trì sự hiện diện quân sự đông đảo của Mỹ ở khu vực đã giúp đẩy lùi giải pháp xung đột vũ trang ra khỏi nghị trình giải quyết tranh chấp. Kể từ năm 1988, Bắc Kinh đã không còn sử dụng lực lượng quân sự để nâng cao vị thế ở Biển Đông và Hoa Đông nữa. Thứ hai, Mỹ sử dụng sức mạnh thuyết phục của mình để củng cố các chuẩn mực luật pháp quốc tế và sức mạnh ngoại giao để khuyến khích các bên liên quan giải quyết tranh chấp bằng biện pháp hòa bình.
Tuy nhiên, cho đến nay, Mỹ đóng vai trò rất mờ nhạt trong việc tác động lên các toan tính của Bắc Kinh khi nước này lựa chọn chiến lược "đe nẹt". Các công cụ của Mỹ ở khu vực chủ yếu là quân sự, tức là để dành cho việc ngăn chặn hay chiến thắng một cuộc chiến tranh.
Chúng ta không có một "vỏ bọc" dân sự nào tương tự Trung Quốc ở khu vực và sử dụng Hải quân Mỹ để chống trả các tàu chấp pháp dân sự của Trung Quốc sẽ chỉ làm leo thang căng thẳng. Tuy nhiên, có rất nhiều biện pháp mà Mỹ có thể sử dụng để hỗ trợ cho ổn định khu vực và cải thiện việc tuân thủ khuôn khổ luật pháp quốc tế giúp thúc đẩy an ninh quốc gia và khu vực.
Trước hết, Mỹ phải duy trì sức mạnh quân sự răn đe ở Đông Á. Vai trò quan trọng nhất của Mỹ ở Đông Á là ngăn không cho bên nào sử dụng xung đột vũ trang như một giải pháp giải quyết tranh chấp. Nếu sức mạnh răn đe của Mỹ bị xói mòn, sẽ không còn biện pháp nào có thể đảm bảo rằng lựa chọn xung đột vũ trang sẽ không xuất hiện trở lại trên bàn giải quyết tranh chấp. Đây chính là đóng góp lớn nhất của Mỹ và chỉ mình Mỹ có thể làm được. Nếu chúng ta không thể làm được gì khác thì chí ít chúng ta cũng phải tiếp tục duy trì được điều này.
Ngoại trưởng Mỹ John Kerry
Hai là, cho phép các quốc gia trong khu vực tập trung các nguồn lực hiếm hoi vào việc nâng cao khả năng chống lại sự đe nẹt, áp bức. Bằng việc tập trung vào răn đe quân sự, Mỹ sẽ tạo điều kiện cho các nước trong khu vực đầu tư phát triển lực lượng phòng vệ bờ biển và các lực lượng phi quân sự cần thiết khác nhằm hóa giải áp lực đe doạ của Trung Quốc ngoài biển.
Hơn nữa, tùy vào mức độ mà các nước bên ngoài có thể đóng vai trò hỗ trợ, những nước này có thể xem xét viện trợ tài chính cho các nước đang phải đối mặt với áp lực của Trung Quốc để họ xây dựng năng lực của các lực lượng dân sự chống lại sức mạnh của Trung Quốc. Các đối tác tiềm năng có thể là Úc, New Zealand, Ấn Độ, NATO và Liên minh châu Âu...Đây là những đối tác hợp lý bởi họ phụ thuộc nhiều vào sự ổn định của các tuyến đường hàng hải qua Biển Đông và Biển Hoa Đông.
Ba là, tạo đòn bẩy cho các chuẩn mực quốc tế. Mỹ nên tiếp tục đem sức mạnh ngoại giao đi thuyết phục và khuyến khích các bên liên quan theo đuổi các giải pháp ngoại giao hay thể chế. Sự lãnh đạo của Mỹ trong lĩnh vực này cũng có thể là một sự khích lệ cho các nước khác vốn sẵn có chiều hướng bày tỏ mong muốn tương tự.
Sức mạnh thuyết phục của Mỹ cũng sẽ được củng cố thông qua việc tái khẳng định vai trò lãnh đạo của Mỹ đối với tiến trình phát triển của luật pháp quốc tế về biển. Do UNCLOS là nền tảng của luật pháp quốc tế hiện đại về biển, Mỹ nên thông qua Công ước này nhằm thực thi, duy trì và đẩy mạnh vai trò lãnh đạo của mình hiệu quả hơn cũng như để củng cố khuôn khổ chuẩn mực mà UNCLOS đã xây dựng.
Bốn là, duy trì thế trung lập về vấn đề chủ quyền nhưng không trung lập trong vấn đề các ranh giới trên biển. Chính sách trung lập đối với các tranh chấp chủ quyền của Mỹ - tức là các tranh chấp về quyền sở hữu các đảo, đá và bãi cạn là một chính sách hay, miễn là các tranh chấp được giải quyết không phải bằng biện pháp sử dụng vũ lực. Việc chúng ta từ chối không để bị lôi kéo vào cuộc xung đột với một cường quốc đang lên xung quanh một bộ phận lãnh thổ nhỏ xíu chính là một khía cạnh đóng góp quan trọng vào sự ổn định ở khu vực cũng như toàn cầu.
Nhưng mặt khác, Mỹ có lợi ích lớn trong việc chứng kiến các điều khoản của UNCLOS được thúc đẩy bởi Công ước này cung cấp một hành lang pháp lý có hiệu lực gần như trên toàn cầu giúp làm giảm nguồn cơn tranh chấp và bất ổn an ninh trong lĩnh vực biển.
Tương tự như vậy, chính sách của Mỹ cần thúc đẩy một cách nhất quán vai trò của UNCLOS như là cơ sở để phân định các biên giới về tài nguyên trên Biển Đông. Bộ Ngoại giao Mỹ nên ra một tuyên bố chính thức thách thức bất kỳ quyền nào của Trung Quốc sử dụng đường chín đoạn như cơ sở để phân định ranh giới biển. Trung Quốc phải không được phép sử dụng quan điểm lịch sử hay sức mạnh đe dọa hay bất kỳ cơ sở nào khác để thay đổi những luật lệ hiện hành vốn đã đem lại sự ổn định toàn cầu trong một lĩnh vực từng chứa đầy những căng thẳng và tranh chấp.
Luật pháp quốc tế phải là cơ sở duy nhất cho mọi quốc gia khi đòi hỏi quyền khai thác tài nguyên ở Biển Đông. Không riêng gì Mỹ mà tất cả các nước đều có lợi ích sống còn trong việc đẩy mạnh thực thi các phương pháp của UNCLOS để phân định quyền của các quốc gia ven biển đối với các khu vực tài nguyên. Không phải lịch sử, không phải sức mạnh mà chính là luật pháp quốc tế phải là chuẩn mực.
Sau cùng, có lẽ không điều gì có thể thuyết phục Trung Quốc từ bỏ chiến lược ỷ vào sức mạnh của mình để củng cố quyền kiểm soát trên các đảo và lãnh thổ khác ở Biển Đông. Nếu thế, Trung Quốc sẽ phải trả giá cho chính sách của mình và cái giá đó có thể là họ giành được vài bãi cát chứ không phải là bạn bè.
Tuy nhiên, nếu điều này diễn ra trong những tháng, năm và có lẽ là một vài thập niên tới thì UNCLOS sẽ đóng vai trò như một đối trọng bền vững của sức mạnh cứng. Và Trung Quốc có thể sẽ nhận thấy rằng bất kể có bao nhiêu chiến thắng mà họ dần giành được nhờ sức mạnh biển, người dân Trung Quốc cuối cùng có thể mất nhiều hơn được.