Vì sao NASA chuộng WB-57 - Máy bay có từ Thế chiến II?

Ngọc Anh |

WB-57 là máy bay có từ Thế chiến thứ II được Cơ quan Nghiên cứu Hàng không Vũ trụ Mỹ sử dụng lại.

Sau trên ba thập kỷ ngưng hoạt động, 3 trong số những chiếc máy bay "bà già" WB-57 có từ Thế Chiến thứ II, lại được Cơ quan Nghiên cứu Hàng không Vũ trụ Mỹ (NASA) sử dụng lại, sự thật này vừa được BBC giải mã.

WB-57 được ưa chuộng vì tốc độ và độ cao

Năm 1944, khi Thế Chiến thử II (WW2) bước vào giai đoạn tận cùng, Bộ Không quân Anh (BAM) đưa ra yêu cầu chế tạo một loại máy bay ném bom mới, có thể bay với tốc độ và độ cao lớn hơn so với những loại máy bay ném đương thời.

Các nhà hoạch định của BAM hồi đó không đoán được rằng, chiếc máy bay được hãng English Electric Canberra (EEC) thắng thầu và cho ra đời lại có trụ được tới trên 70 năm, và nay tiếp tục được NASA sử dụng, vừa xuất hiện trên bầu trời Houston, bang Texas.

Vì sao NASA, một cơ quan nổi tiếng, sở hữu nhiều trang thiết bị bay hiện đại lại sử dụng máy bay bà già hết date này ?

Ba máy bay Canberras được sử dụng bởi NASA là phiên bản của Mỹ, mang ký hiệu WB-57. Sở dĩ EEC không thể sản xuất tiếp máy bay này nên đã nhượng quyền cho hãng Marti sản xuất tiếp tại Mỹ, dựa trên phiên bản B-57, và đặt tên mới là WB-57.

Theo thông kê, có khoảng 400 chiếc WB-57 được sản xuất trong giai đoạn từ 1953 đến năm 1957.

Theo ông Charles Mallini, người đứng đầu phi Canberra cho biết, WB-57 là một phần trong Chương trình Nghiên cứu hàng không (ASP), giúp NASA cho ra đời thế hệ máy bay mới để cung cấp các dữ liệu vệ tinh, đặc biệt, do trần bay lớn nên sẽ trở thành công cụ hỗ trợ đắc lực cho các vệ tinh của NASA.


WB-57 được Không quân Hoàng gia Anh sử dụng cho mục đích nghiên cứu khí tượng

WB-57 được Không quân Hoàng gia Anh sử dụng cho mục đích nghiên cứu khí tượng

Như phục vụ cho các nghiên cứu chuẩn cữ, giúp tinh chỉnh từ vệ tinh, kiểm tra cảm biến mới trước khi chúng được phóng vào không gian, hoặc kiểm tra chéo các vệ tinh trên quỹ đạo.

Thực tế, các máy bay Canberras WB-57 đã thực hiện nhiều chuyến bay mang theo các thiết bị khoa học, đo lường hóa học khí quyển, các hạt điện toán đám mây, bụi vũ trụ, độ ẩm đất, độ cao băng biển và nhiều ứng dụng quan trọng khác.

Ngoài ra, sự hiện diện của Canberras trên bầu trời còn mang ý nghĩa khác, nhớ về một mô hình thiết kế ấn tượng, khởi thủy từ thế hệ máy bay phản lực đầu tiên của nhân loại, khi mà các nhà thiết kế phải đối mặt với hàng loạt các vấn đề kỹ thuật nan y từ tốc độ, độ cao, cho đến phụ tải..., một giấc mơ tưởng như "không tưởng" ở những năm đầu của thế kỷ trước.

Năm 1944, thế hệ máy bay đầu tiên của EEC chính thức được đầu quân cho BAM, chuyến bay đầu tiên được khởi động vào năm 1950.

Nguyên thủy, nó có thiết kế kiểu dáng đẹp, đặc biệt là khoang lái mang tính nghệ thuật quân sự, phi công và hoa tiêu ngồi cạnh tạo ra cặp đôi ăn ý, giúp thao tác nhanh, hiệu quả, còn bom được đặt ở một vị trí hợp lý, có thể quan sát được từ buồng lái.

WB-57 sử dụng động cơ Rolls-Royce Avon, động cơ cực khỏe, được sử dụng cho dòng máy bay chiến đấu Lighting sau này của Anh, được đặt trong vỏ khí động học, lắp trên hai cánh. Riêng sải cánh có độ dài chính xác bằng thân máy bay.

Một chi tiết rất đặc biệt giải quyết nhiều vấn đề kỹ thuật nan y, như tiến độ chế tạo, độ tin cậy và dễ vận hành. Với những ưu điểm này, năm 1957, một máy bay Canberra đã phá vỡ kỷ lục về độ cao, với độ cao 70,310 ft (21.400 m).


WB-57 được Không quân Hoàng gia Anh sử dụng cho mục đích nghiên cứu khí tượng

WB-57 được Không quân Hoàng gia Anh sử dụng cho mục đích nghiên cứu khí tượng

Đánh giá về tính năng của Canberra, David Keen, nhân viên Bảo tàng Không quân Hoàng gia Anh (RAF) ở Hendon, nhận xét, Canberra là mẫu thiết kế ưu việt ngay từ khi mới đưa vào hoạt động.

Nó có thể bay cao và nhanh hơn bất kỳ loại máy bay ném bom khác cùng thời và do không có chở súng như các loại máy bay Thế Chiến thứ II nên Canberra có tốc độ cực lớn, bỏ xa máy bay đối phương.

Đây chính là lý do Canberra vẫn được trọng dụng sau hơn 7 thập kỷ tồn tại, nhất là cho mục đích trinh sát, hoặc ném bom chính xác và cho nhiều ứng dụng tương tự khác.

Ban đầu, WB-57 được trang bị một số camera công suất lớn để quay phim hệ thống phòng không của đối phương cũng như các cảm biến để thu truyền thông tin điện đàm.

Đây là những điều NASA rất cần, nên khi WW2 kết thúc những chiếc máy bà "bà già" này đã được cải tiến để sử dụng lại.

Năm 1972, khi RAF chính thức cho Canberra nghỉ hưu, song nó vẫn chưa nghỉ hẳn, được sử dụng như là một người lính trinh sát trên không thêm 3 thập kỷ nữa.

Từng thực hiện nhiệm vụ giám sát tại Bắc Ireland, Bosnia và Kosovo, cũng như được sử dụng ở Afghanistan vào những năm 2000, gần 50 năm sau khi chiếc WB-57 đầu tiên đi vào hoạt động.

David Bruce, một thành viên của RAF, người từng lái những chiếc WB-57 phiên bản trinh sát vào cuối những năm 1960, thì việc lái Canberra rất thú vị khi đảm nhận thêm vai trò trinh sát, đặc biệt là trong việc khảo sát chụp ảnh cho mục đích làm bản đồ tại Gambia, Sierra Leone, Kenya, Maldives và các Tiểu Vương quốc Arab Thống nhất (UAE).


Ba máy bay WB-57 vẫn đang hoạt động nhờ chi tiết dự phòng có sẵn

Ba máy bay WB-57 vẫn đang hoạt động nhờ chi tiết dự phòng có sẵn

2. Lợi thế dễ nâng cấp

Một trong tính năng nổi trội của WB-57, được NASA trọng dụng là có thiết kế linh hoạt, có khả năng nâng cấp dễ dàng theo mục tiêu sử dụng cụ thể, đặc biệt là thiết kế cánh, rất lợi thế về cân bằng khi hoạt động trên cao.

Theo cựu chỉ huy RAF, David Bruce, thành viên Hiệp hội Không quân hoàng gia, người từng bay Canberra những năm cuối thập niên 60 thì Canberra có nhiều tính năng vượt thời gian, đặc biệt là vai trò trinh sát, khảo sát chụp ảnh cho các mục đích lập bản đồ.

Nó chụp được những tấm ảnh có độ nét cao, chính xác, kể cả những nơi có sự tương phản địa hình lớn.

Còn theo ông Charles Mallini, người đứng đầu chương trình ASP của NASA, những tiêu chí khiến động cơ WB-57 "sống mãi với thời gian" là trần hoạt động, phụ tải trọng tối đa và phi hành đoàn.

Là biến thể của máy bay do thám U-2, những chiếc ER-2 của NASA có thể bay cao hơn nhưng lại không thể mang nhiều thiết bị như WB-57.

Hoặc máy bay do thám Global Hawk của NASA có thể tác nghiệp liên tục trên bầu trời với thời gian dài gấp 4 lần so với WB-57 nhưng tải trọng của nó không bằng WB-57.

Những chiếc máy bay WB-57 hoạt động rất tốt nên nó không có tuổi nghỉ hưu.

"Hiện tại, chúng tôi đang có kế hoạch nâng cấp hệ thốnglái tự động, hệ thống ghế phóng, hệ thống thu thập dữ liệu mới, và hệ thống thông tin liên lạc vệ tinh và truyền thông", ông Mallini vừa cho hay.

Gần đây nhất, năm 2013 chỉ có hai máy bay WB-57 hoạt động, nhưng sau đó đơn vị ASP của Mallini đã bổ xung thêm chiếc thứ 3 nghỉ hưu từ năm 1972, có tên 63-13295.


NASA vẫn chưa muốn 3 máy bay WB-57 nghỉ hưu

NASA vẫn chưa muốn 3 máy bay WB-57 nghỉ hưu

Máy bay này đã có thâm niên 20 năm hoạt động trong phi đội Arizona Boneyard nổi tiếng, đóng tại ngoại ô Tucson trước khi NASA trưng dụng và được gọi bằng tên mới NASA 927.

Nó vừa thực hiện chuyến bay thử nghiệm đầu tiên tháng 8/2013, chuyến bay đầu tiên sau đợt ngủ đông dài 41 năm.

Vài nét trích ngang về WB-57

Nguyên thủy, Martin B-57 Canberra là máy bay ném bom và máy bay trinh sát phản lực hai động cơ, còn B-57 do Mỹ chế tạo có nhiều phiên bản khác nhau.

Đặc điểm kỹ thuật (B-57B): Đội bay 02 người, chiều dài: 20 m, sải cánh 19,5 m, chiều cao 4,52 m, diện tích bề mặt cánh 89 m2, diện tích cản 1,06 m2, hệ số nâng/lực cản 0,0119, lực nâng của cánh 205 kg/m2;

Trọng lượng không tải 12.285 kg, trọng lượng có tải 18.300 kg, trọng lượng cất cánh tối đa 24.365 kg.

Tốc độ tối đa 960 km/h, tốc độ bay đường trường 765 km/h, tầm bay tối đa 4.380 km, bán kính chiến đấu 1.530 km với 2.380 kg bom, trần bay 13.745 m.

Vũ khí pháo M39 20 mm (4 khẩu), 290 viên đạn mỗi khẩu; 2.000 kg bom, kể cả bom nguyên tử, 1.300 kg bom treo trên 4 đế dưới cánh, kể cả rocket. Hệ thống ném bom dẫn đường bằng radar APW-11. Hệ thống ném bom SHORAN và Radar cảnh báo APS-54.

Đường dây nóng: 0943 113 999

Soha
Báo lỗi cho Soha

*Vui lòng nhập đủ thông tin email hoặc số điện thoại