F-111 là máy bay ném bom chiến lược tầm trung bắt đầu phục vụ trong Không quân Mỹ từ năm 1967. Tổng cộng 563 chiếc F-111 đã được sản xuất.
F-111 có trọng lượng không tải 21.537 kg; trọng lượng có tải: 37.577 kg; trọng lượng cất cánh lớn nhất: 44.896 kg; Tầm bay tối đa 5.190 km.
F-111 được thiết kế với hình dạng cánh có thể thay đổi “cánh cụp cánh xòe”. Chính điểm đặc biệt này cho phép phi công có thể bay tầm thấp với vận tốc siêu âm. Khi cánh xòe hết cỡ thì lực nâng của cánh tăng lên cho phép máy bay cất hạ cánh đường băng ngắn.
F-111 trang bị hai động cơ Pratt & Whitney TF30-P-100, cho phép nó đạt tốc độ vượt âm Mach 2.5 (2.665km/giờ), tầm bay trên 5000km. F-111 được trang bị với 6 bình nhiên liệu.
F-111 được trang bị một khẩu pháo M-61 “Thần lửa” và 14.000 kg bom mang trên 4 giá treo bên ngoài cánh và hai giá treo nằm trong khoang vũ khí máy bay. F-111 mang được các loại bom thông thường và bom hạt nhân.
Dây chuyền sản xuất máy bay ném bom chiến lược F-111 tại xưởng của tập đoàn General Dynamics, bang Texas.
Các hoạt động sửa chữa, bảo dưỡng F-111 được thực hiện tại xưởng ở Fort Worth, Texas, Mỹ.
Chiếc F-111 được sản xuất đầu tiên mang số hiệu Serial Number 67-0159 hiện đang được trưng bày tại bảo tàng hàng không California, Mỹ.
F-111 được sản xuất với nhiều phiên bản khác nhau, bao gồm: F-111A, F-111B dành cho Không quân Mỹ, F-111C dành cho Không quân hoàng gia Australia và F-111K dành cho Không quân Hoàng gia Anh.
F-111B được phát triển với nhiệm vụ là máy bay đánh chặn hoạt động trên tàu sân bay, tiếp sau F-4 Phantom II.
Có 7 chiếc F-111B được chuyển giao cho Không quân Mỹ trược khi phiên bản này bị ngừng sản xuất vào năm 1968.
F-111B sử dụng nhiều sáng kiến kỹ thuật mới như cánh cụp cánh xòe...
...và hệ thống vũ khí tầm xa AWG-9/AIM-54 Phoenix.