5 hệ thống phòng không lợi hại của Nga, Mỹ

Bảo An |

(Soha.vn) - Trong bài viết trên tạp chí National Interest, tác giả Kyle Mizokami đã liệt kê những hệ thống phòng không cũ nhưng từng chứng tỏ hiệu quả chiến đấu cao trong quá khứ.

Có hai cách chúng ta có thể đánh giá mức độ hủy diệt của một hệ thống tên lửa phòng không: dựa trên số lượng máy bay thực sự bị bắn rơi và mức độ hiệu quả trong chiến đấu. Nhờ những tiến bộ trong lĩnh vực điện tử, các tên lửa ngày càng trở nên hiệu quả hơn và có thể phòng thủ trước nhiều mối đe dọa trên không, vì vậy, sẽ dễ dàng khi liệt kê các hệ thống phòng không mới nhất và tốt nhất (trên lý thuyết). Tuy nhiên, chúng ta sẽ bỏ qua mất một số tên lửa đã cũ từng chứng tỏ hiệu quả trong quá khứ như dưới đây:

1. SA-2 Guideline (Liên Xô)

Được thiết kế vào năm 1953, tên lửa đất đối không SA-2 của Liên Xô hoạt động trên thế giới suốt hơn 50 năm sau đó. Nó ban đầu được thiết kế như một hệ thống phòng không cố định để chống lại các máy bay ném bom bay ở tốc độ cao và độ cao lớn của Mỹ. SA-2 sử dụng hệ thống radar cảnh báo sớm P-12 và radar kiểm soát tên lửa RSN-75 “Fan Song”. Năm 1959, biến thể cơ động S-75 “Desna” được đưa vào hoạt động và biến thể nâng cấp S-75M “Volkov” được triển khai năm 1961.

Liên Xô đã xuất khẩu hệ thống tên lửa SA-2, trang bị cho các quốc gia tiền đồn của khối xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ đó, từ Cuba đến Mông Cổ. SA-2 đã tham gia các cuộc chiến tranh sáu ngày, chiến tranh Việt Nam, chiến tranh Yom Kippur, chiến tranh Iran-Iraq, chiến tranh vùng Vịnh năm 1991, nội chiến Nam Tư và chiến tranh ở Abkhazia. SA-2 đã bắn hạ một máy bay do thám RB-57D của Đài Loan trên không phận Trung Quốc vào năm 1959. Nó cũng được sử dụng để bắn hạ một máy bay do thám U-2 của Mỹ trên bầu trời Sverdlovsk, Nga, năm 1960.

SA-2 đóng vai trò xương sống trong hệ thống phòng không tầm trung và cao của quân đội Việt Nam trong cuộc chiến tranh chống Mỹ. Trong năm 1965, tỷ lệ bắn trúng mục tiêu của SA-2 là 1/15 lần phóng; vào năm 1972, do Mỹ cải tiến hệ thống phòng thủ và chiến tranh điện tử, tỷ lệ bắn chính xác của SA-2 đã giảm xuống 1/50 lần phóng.

Hệ thống tên lửa SA-2 hiện vẫn phục vụ trong quân đội 20 quốc gia trên thế giới. Chúng thường được hiện đại hóa để kéo dài thời gian hoạt động. “Chiến tích” gần đây nhất của SA-2 được cho là bắn hạ một máy bay chiến đấu Su-27 Flanker của Nga trong chiến tranh Abkhazia năm 1993.

2. SA-7 Grail (Liên Xô)

SA-7 có ưu điểm rẻ, nhẹ nhưng dễ rơi vào tay những kẻ xấu. Là thế hệ tên lửa phòng không vác vai (MANPADS) đầu tiên của Liên Xô.

Tên lửa SA-7 được thiết kế để đối phó các máy bay tấn công tầm thấp của NATO. Nó được sử dụng rộng rãi trong các đơn vị tiền tuyến của quân đội Liên Xô, bao gồm lực lượng bộ binh cơ giới, đổ bộ đường không, bộ binh hải quân và công binh. Một máy bay NATO bay trên một tiểu đoàn của Liên Xô sẽ phải vượt 3 khẩu đội SA-7.

Việc triển khai SA-7 với mật độ cao như thế trên chiến trường là cần thiết vì giống như tất cả các loại MANPADS thế hệ thứ nhất, SA-7 tương đối thô sơ. Quân đội Ai Cập trong cuộc chiến tranh tiêu hao năm 1969-1970 đã bắn hạ 36 mục tiêu trong 99 lần phóng. Tuy nhiên, đầu đạn của tên lửa SA-7 rất nhỏ, nên phần lớn máy bay trúng tên lửa này chỉ bị hư hại chứ không bị rơi và công tác huấn luyện cũng như những cải tiến về máy bay đã làm giảm mạnh hiệu quả của tên lửa SA-7 trong chiến tranh Yom Kippur năm 1973.

Ngoài được sử dụng trong quân đội các nước, SA-7 cũng được sử dụng bởi các phần tử khủng bố và các nhóm nổi dậy trên toàn thế giới, từ Syria đến Bắc Ireland và Tây Ban Nha. Các nhóm phiến quân tại Syria được cho là sở hữu tên lửa SA-7 chiếm được từ quân đội chính phủ. Ít nhất 1 tên lửa loại này được phóng nhằm vào 1 trực thăng của Israel tại Dải Gaza năm 2012. Trong cuộc nội chiến Rhodesian Bush năm 1978, 2 máy bay chở khách của hãng Air Rhodesia đã bị quân nổi dậy bắn rơi bằng tên lửa SA-7.

3. SA-6 Gainful (Liên Xô)

SA-6 là tên lửa dẫn đường bằng radar được đặt trên một xe phóng bánh xích. Nó bắt đầu trở nên nổi tiếng trong cuộc chiến tranh Yom Kippur năm 1973, khi Ai Cập tái chiếm bán đảo Sinai. Quân đội Ai Cập sở hữu tới 32 tổ hợp tên lửa SA-6. Là một hệ thống mới mà phương Tây chưa từng gặp phải, SA-6 không bị các radar cảnh báo sớm của Không quân Israel phát hiện.

SA-6 Gainful 2K12 Kub Ground-to-air missile system technical data sheet specifications information description pictures photos images identification intelligence Russia Russian army

Bị bất ngờ với các cuộc tấn công bất thình lình của quân đội Ai Cập, Không quân Israel đã không thể vô hiệu hóa các hệ thống phòng không đối phương trước khi tham chiến. Trong 3 ngày đầu tiên của cuộc chiến tranh, Không quân Israel đã mất gần 50 máy bay, phần lớn bị SA-6 bắn hạ. Tư lệnh Không quân Israel sau đó buộc phải ra lệnh các máy bay tránh xa kênh đào Suez, trừ phi thực sự cần thiết.

Không quân Israel đảm nhận vai trò "pháo binh bay" cho Lục quân và SA-6 trong nhiều trường hợp đã khiến các lực lượng mặt đất của Israel mất đi sự yểm trợ từ không quân. SA-6 tiếp tục là một mối đe dọa cho tới khi hệ thống phòng không của Ai Cập bị phá hủy trong các cuộc tấn công kết hợp của không quân và phản công của Israel. Kết thúc cuộc chiến, Không quân Israel mất khoảng 40 máy bay chiến đấu F-4 Phantom và A-4 Skyhawk do bị SA-6 bắn hạ (chưa kể tới các loại tên lửa hay pháo phòng không), tức là khoảng 14% số máy bay F-4 và A-4 của Không quân Israel.

Sức đe dọa của tên lửa này đối với máy bay phương Tây đã giảm đáng kể sau khi phương Tây phân tích các tên lửa thu được và tìm ra các biện pháp đối phó chúng. SA-6 đã bắn hạ 2 máy bay chiến đấu F-16 Vipers của Mỹ, 1 chiếc trong cuộc chiến vùng Vịnh năm 1991 và 1 chiếc trên bầu trời Bosnia vào năm 1995. Lần diệt mục tiêu gần đây nhất của SA-6 là sự cố bắn nhầm tại Ba Lan năm 2003, khi một tổ hợp tên lửa này vô tình bắn rơi một chiếc máy bay tấn công phản lực Su-22 Fitter của Không quân Ba Lan trong quá trình tập trận.

4. FIM-92 Stinger (Mỹ)

Tên lửa Stinger là một điển hình của MANPADS thế hệ thứ hai. Stinger đã làm nên tên tuổi ở vùng núi Afghanistan, nơi nó thể hiện hiệu quả chống lại các trực thăng và chiến đấu cơ của Liên Xô. Việc sử dụng tên lửa Stinger đã giúp rút ngắn cuộc chiến tranh này.

Giống như SA-7 của Liên Xô, Stinger được thiết kế cho lực lượng mặt đất của Mỹ để bảo vệ chống lại các máy bay tấn công mặt đất của đối phương. Nhưng khác SA-7, tên lửa Stinger có khả năng đánh chặn mọi góc độ. Nó có thể phát hiện và tấn công máy bay từ mọi góc độ, không chỉ từ phía sau.

Stinger có đầu đạn lớn hơn các tên lửa thế hệ trước, giúp nó tăng khả năng bắn hạ máy bay chiến thuật thay vì chỉ gây hư hại.

Mỹ bắt đầu bí mật cung cấp các tên lửa Stinger cho lực lượng phiến quân Afghanistan vào năm 1986. Khoảng 500 bệ phóng mang vác và 1.000 quả tên lửa đã được chuyển giao cho lực lượng này. "Nạn nhân" đầu tiên của tên lửa Stinger là một máy bay trực thăng Mi-8MT Hip hoạt động trên bầu trời Jalalabad vào ngày 25/9/1986. Liên Xô đã thiệt hại gần 270 máy bay trong thời gian từ năm 1986 đến 1989.

Mức độ chính xác của tên lửa Stinger trong chiến đấu ước tính từ 4% đến 70%. Không quân Liên Xô được cho là đã phải thay đổi chiến thuật và Lục quân Liên Xô thường mất đi sự yểm trợ đường không tầm gần và suy giảm khả năng tiến hành các hoạt động sử dụng trực thăng.

5. MIM-104 Patriot (Mỹ)

Là một trong những tên lửa nổi tiếng nhất trên thế giới, tên lửa Patriot của quân đội Mỹ nổi danh trong cuộc chiến tranh vùng Vịnh năm 1991, khi nó được sử dụng để bảo vệ lực lượng liên quân và các khu dân cư Israel trước các tên lửa Scud từ Iraq. Mặc dù khi đó được tán dương như một thành công lớn, tỷ lệ thành công thực sự của Patriot được cho là chỉ ở trong phạm vi một con số.

Kể từ đó, Patriot gần như liên tục được cải tiến và trở thành một hệ thống tên lửa hoàn thiện hơn. Ban đầu được thiết kế chỉ để chống lại máy bay nhưng Patriot hiện có khả năng đánh chặn trực thăng, tên lửa hành trình, tên lửa đạn đạo và máy bay không người lái. Để chống lại tên lửa đạn đạo, Patriot dùng để đánh chặn các đầu đạn của tên lửa ở giai đoạn bay cuối.

Việc phát triển Patriot đã phân thành 2 loại tên lửa. Một tổ hợp Patriot có thể sử dụng cả 2 loại tên lửa để đối phó với nhiều mối đe dọa. PAC-2/GEM có khả năng bắn hạ máy bay, tên lửa hành trình và tên lửa đạn đạo. Mỗi bệ phóng được lắp 4 tên lửa này. PAC-2/GEM có tầm bắn tới 70 km và độ cao tác chiến tối đa lên tới hơn 25.000 m.

Hệ thống PAC-3 MSE được thiết kế chuyên bắn hạ các tên lửa đạn đạo. Nó cũng có kích thước nhỏ hơn và mỗi bệ phóng có thể lắp 12 quả tên lửa thay vì 4. Mỗi tên lửa có tầm bắn 35km và độ cao tác chiến tối đa 34.000m.

Patriot là một sản phẩm của những năm 1970-1980, thời kỳ phòng thủ tên lửa không được thảo luận nghiêm túc và nó được thiết kế đơn thuần để đánh chặn máy bay. Qua thời gian, Patriot đã chứng minh được khả năng thích nghi đáng ngạc nhiên. Cho dù thất bại trong cuộc chiến tranh vùng Vịnh 1991, trong cuộc tấn công vào Iraq năm 2003 nhưng Patriot đã bắn hạ 9 quả tên lửa đạn đạo của Iraq.

Giới thiệu hệ thống tên lửa Patriot

Xem toàn bộ VIDEO HOT trên SOHA

* Bài viết thể hiện quan điểm riêng của tác giả Kyle Mizokami, người từng cộng tác với nhiều tờ báo nổi tiếng như tạp chí Diplomat, Foreign Policy, The Daily Beast.

 

Đường dây nóng: 0943 113 999

Soha
Báo lỗi cho Soha

*Vui lòng nhập đủ thông tin email hoặc số điện thoại