Với tổng giá trị hợp đồng khoảng 1 tỷ USD do các quốc gia NATO đóng góp, các máy bay AWACS E-3A sau khi nâng cấp sẽ tiếp tục phục vụ tới năm 2035.
Giới chức NATO dự kiến, các máy bay AWACS E-3A sẽ phục vụ tới khi khối quân sự này xây dựng mạng lưới viễn thám đường không hiện đại dựa trên sự kết hợp của trí thông minh nhân tạo, hệ thống đồng bộ dữ liệu hợp nhất trên quy mô toàn khối.
Theo hợp đồng đã ký, 750 triệu USD sẽ được phân bổ cho việc duy trì hoạt động của các máy bay E-3A và hơn 250 triệu USD cho mua sắm phụ tùng, thử nghiệm và hoàn thiện các hệ thống liên quan.
Máy bay AWACS E-3A thuộc NATO. Ảnh: Getty.
Các đơn vị máy bay AWACS là một trong những tài sản hiếm hoi thuộc sở hữu chung của các quốc gia NATO. Chúng được sử dụng trong các nhiệm vụ quân sự chung của khối như hỗ trợ trên không, chống khủng bố và ứng phó khủng hoảng.
Phần lớn các máy bay AWACS E-3A được triển khai tại căn cứ không quân Geilenkirchen (Đức). Gần đây, 3 máy bay AWACS E-3A được triển khai tới căn cứ niêm cất hàng không số 309 tại Mỹ.
Để bổ sung sức mạnh cho các phi đội “radar bay” tại châu Âu, NATO đang cân nhắc mua thêm các máy bay Boeing AWACS E-7 Wedgetail mới cùng với Anh và Thổ Nhĩ Kỳ. Việc kết hợp này có thể giúp NATO tiết kiệm nhờ tăng số lượng máy bay đặt hàng.
Giới chức NATO đánh giá, AWACS E-7 mang nhiều công nghệ mới để mở rộng khả năng chiến đấu hiện đại, trong đó có các tổ hợp máy bay không người lái.
AWACS E-3A là dòng máy bay cảnh báo sớm được phát triển trên cơ sở khung thân của máy bay chở khách Boeing-707 với vai trò kiểm soát vùng trời, kết nối hoạt động của các đơn vị máy bay liên quân.
Thành phần quan trọng nhất của AWACS E-3A là hệ thống ra-đa hàng không cỡ lớn AN/APY-1/2 AWACS của hãng Northrop Grumman phát triển giúp nhận diện, theo dõi và xác định các mục tiêu trên không ở mọi độ cao, mọi điều kiện thời gian, thời tiết.
Tác chiến trên E-3 Sentry là kíp phi công 4 người cùng đội ngũ chuyên viên tác chiến điện tử từ 13 đến 19 người. Sức mạnh đến từ 4 động cơ Pratt&Whitney TF33-PW-100A cho E-3 Sentry đạt tốc độ tối đa 981km/giờ với tầm hoạt động 7.400km ở độ cao 12.500m. Thời gian hoạt động liên tục trên không của E-3A là 8 giờ và có thể kéo dài nhờ máy bay tiếp liệu trên không.