Triển vọng tích cực
Các nhà kinh tế của Goldman Sachs ước tính rằng lạm phát bình quân ở nhóm các nền kinh tế trải qua đợt lạm phát gia tăng sau thời kỳ đại dịch Covid-19 như Mỹ, châu Âu và một số thị trường mới nổi sẽ bằng hoặc tiệm cận với mức mục tiêu của hầu hết các ngân hàng trung ương.
Lạm phát hạ nhiệt sẽ hỗ trợ nền kinh tế theo hai cách: tăng cường sức mua của hộ gia đình và cho phép các ngân hàng trung ương cắt giảm lãi suất.
Michael Saunders, cố vấn cấp cao tại Oxford Economics, dự kiến lạm phát sẽ đạt 1,3% trong quý 4 năm tới tại khu vực đồng euro và 2,7% ở Anh, trong khi lạm phát ở Mỹ sẽ giảm xuống 2,2% tính theo chỉ số PCE. PCE chính giảm 0,1% trong tháng 11 và chỉ tăng 2,6% so với một năm trước. Còn PCE lõi, không bao gồm giá thực phẩm và năng lượng dễ biến động, tăng 0,1% trong tháng 11 và tăng 3,2% so với cùng kỳ năm ngoái.
Cục Dự trữ Liên bang, Ngân hàng Trung ương Châu Âu và Ngân hàng Anh đều đặt mục tiêu lạm phát ở mức 2%. Saunders, cựu thành viên Ủy ban Chính sách tiền tệ của Ngân hàng Anh, cho biết: “Các yếu tố chung có thể kéo lạm phát đi xuống là lương thực, năng lượng, giá hàng hóa toàn cầu và chính sách tiền tệ. Nhưng việc trở lại mức mục tiêu tại các khu vực đồng euro, Mỹ và Anh cũng chịu áp lực lớn từ thị trường lao động”.
Lạm phát toàn cầu được cải thiện là sự đối lập với làn sóng lạm phát bắt đầu nổi lên trên thế giới cách đây 3 năm. Đầu tiên, vào năm 2021, giá hàng hóa tăng vọt do sản xuất và vận chuyển toàn cầu bị gián đoạn bên cạnh nhu cầu mạnh mẽ do các gói kích thích tài chính và tiền tệ.
Xung đột Nga và Ukraine năm 2022 cũng kéo theo giá cả hàng hóa tăng cao, khiến lạm phát đạt đỉnh điểm trong nhiều thập kỷ. Lạm phát ở khu vực đồng euro đã đạt đỉnh 10,6% vào tháng 10 năm 2022.
Lực lượng lao động cũng bị đình trệ vì liên quan đến Covid. Vì vậy, do nhu cầu đối với người lao động tăng đã khiến tiền lương tăng mạnh và dẫn đến lạm phát dịch vụ.
Chi phí nhà ở cùng độ trễ chính sách cũng đã thúc đẩy lạm phát dịch vụ. Tại Mỹ, giá tiêu dùng đã tăng 3,1% trong tháng 11 so với một năm trước đó, nhưng chỉ tăng 1,4% nếu không bao gồm giá nhà ở. Tác động này nhỏ hơn nhiều ở châu Âu.
Chuỗi cung ứng thông suốt đã giúp giảm lạm phát cho đến cuối năm 2022 và trong suốt năm nay, điều đó cũng có thể sẽ tiếp tục kéo dài sang năm tới. Ví dụ, ở Mỹ, giá ô tô đã qua sử dụng - nguyên nhân chính gây ra lạm phát - vẫn còn giảm thêm vào đầu năm 2024 khi thị trường trở lại bình thường, Omair Sharif, người sáng lập Inflation Insights nhận định.
Thị trường năng lượng và hàng hóa cũng sẽ điều chỉnh theo sự gián đoạn ở Ukraine, giúp giảm giá năng lượng và ổn định chi phí lương thực.
Neil Dutta, người đứng đầu bộ phận nghiên cứu kinh tế tại Renaissance Macro Research cho biết những lĩnh vực này sẽ tiếp tục đè nặng lên lạm phát vào năm 2024. Ông nói: “Giá năng lượng đã giảm, và do giá dầu diesel giảm, chúng ta có thể sẽ thấy điều đó ảnh hưởng đến giá thực phẩm và hàng tạp hóa trong những tháng tới”.
Thị trường lao động ở nhiều nền kinh tế lớn cũng bắt đầu tái cân bằng trong năm nay, làm giảm tốc độ tăng trưởng tiền lương, một yếu tố đóng góp chính vào chi phí dịch vụ. Điều đó sẽ tiếp tục vào năm 2024.
Sự khác biệt giữa các nền kinh tế
Một lần nữa, thời gian và tác động sẽ khác nhau tùy theo từng quốc gia. Peter Berezin, chiến lược gia trưởng toàn cầu tại BCA Research cho biết: “Sự tái cân bằng cung-cầu trên thị trường lao động ở Mỹ đang diễn ra rồi”.
Simon MacAdam, chuyên gia kinh tế toàn cầu cấp cao tại Capital Economics cho biết, tiến độ có thể sẽ chậm hơn ở Anh bởi có một tỷ lệ cao bất thường đối với người tàn tật đang nằm trong danh sách chờ có người chăm sóc đã khiến cho nguồn cung lao động ở nước này giảm xuống. Và mặc dù dòng người nhập cư vào Anh đang cao kỷ lục, nhưng kỹ năng của họ được cho là chưa phù hợp với các vị trí cần tuyển dụng.
Lạm phát hạ nhiệt, cùng với tăng trưởng giảm tốc hoặc rơi vào trì trệ ở các nền kinh tế lớn sẽ tạo tiền đề cho việc cắt giảm lãi suất vào năm tới.
Trong cuộc họp chính sách tiền tệ tháng 12, Fed đã phát tín hiệu sẽ giảm lãi suất trong năm 2024. “Nền kinh tế Mỹ đang hoạt động tương đối tốt. Điều kiện tài chính đã nới lỏng. Lợi nhuận của doanh nghiệp được cải thiện”, ông Dutta nhận định. Vị chuyên gia dự báo Fed có thể giảm lãi suất 3-4 lần trong năm tới, thay vì giảm tới 6 lần như kỳ vọng của thị trường. “Nhưng đó là điều tốt, vì có vẻ nền kinh tế sẽ hạ cánh mềm”, ông cho biết.
Triển vọng Fed hạ lãi suất đã khiến giá trái phiếu kho bạc Mỹ tăng và lợi suất giảm xuống, qua đó giúp giảm lãi suất vay vốn đối với doanh nghiệp và người mua nhà ở Mỹ. Người đi vay ở châu Âu có thể sẽ phải đợi lâu hơn để được hưởng mức lãi suất giảm, vì họ vay nhiều hơn từ các ngân hàng thay vì từ thị trường vốn và lãi suất cho vay của các ngân hàng có mối liên hệ mật thiết với lãi suất chính sách của các ngân hàng trung ương, ông MacAdam nói. Vị chuyên gia cho rằng lãi suất ngân hàng ở khu vực đồng euro sẽ không giảm mạnh trước quý II sang năm, ở Anh thậm chí sẽ còn muộn hơn vì lạm phát dai dẳng hơn.
Với việc lạm phát hạ nhiệt nhanh trên toàn cầu, các chiến lược gia của Bank of America còn dự đoán sẽ có 152 lần cắt giảm lãi suất của các ngân hàng trung ương toàn cầu vào năm tới, nhiều nhất kể từ năm 2009.
Nhà kinh tế trưởng Douglas Porter của BMO Capital Markets Economics dự báo hầu hết các nền kinh tế lớn sẽ tăng trưởng chậm hơn trong năm 2024 so với năm 2023. Nhưng việc cắt giảm lãi suất, giá năng lượng và thực phẩm giảm, cùng với chuỗi cung ứng trở lại trạng thái bình thường sẽ giúp nền kinh tế thế giới tránh được suy thoái.