Tấm lòng thuần khiết
Hòa thượng Hư Vân là người Tương Lương, tỉnh Hồ Nam, tên tục là Tra, thuộc dòng dõi Lương Võ Đế.
Thân phụ ngài là Ngọc Đường, từng làm quan tri phủ Tuyền Châu thuộc tỉnh Phúc Kiến. Mẹ ngài họ Nhan, tuổi ngoài bốn mươi mà chưa có một mụn con, nên hai vợ chồng đến chùa Quán Âm để xin con cầu tự.
Một đêm nọ, họ cùng mộng thấy một vị trưởng lão mặc y phục màu xanh, đầu đội tượng Quán Thế Âm, thân cưỡi hổ, nhảy lên giường nằm.
Vợ quan Ngọc Đường kinh sợ tỉnh dậy, nghe mùi hương lạ thoảng khắp phòng và thọ thai sau đó. Tuy nhiên, bào thai lúc lọt lòng lại là một bọc thịt khiến bà thất vọng ê chề, uất khí mà qua đời.
Ngày hôm sau, một ông già bán thuốc đi ngang, lấy dao mở bọc thịt ra thì thấy bên trong là một bé trai, chính là hòa thượng Hư Vân. Từ đó, ngài được kế mẫu nuôi dưỡng, săn sóc.
Hòa thượng Hư Vân từ nhỏ đã không ăn được thịt. Khi lớn lên, vốn có thiện căn nên ngài không hứng thú với sách vở Nho giáo mà chỉ thích giáo lý nhà Phật.
Điều này khiến cha ngài không vui bởi ngài vốn là đứa con kế thừa duy nhất trong gia tộc. Vì lẽ đó, quan Ngọc Đường từng tìm cách tuyệt mọi ý niệm xuất gia của con trai.
Năm 17 tuổi, theo định ước, cha ngài cưới cho ngài hai cô gái là Điềm Thị và Đàm Thị để giữ gìn hương hỏa, nhưng Hòa thượng Hư Vân không hề nhiễm sắc dục.
Trong đêm tân hôn, ngài Hư vân đã cùng hai người vợ giao ước rằng trên danh nghĩa tuy là vợ chồng nhưng ba người không xâm phạm nhau, trở thành bạn đạo thanh tịnh.
Trước sức ép kế thừa dòng dõi gia tộc, ngài giã từ cuộc sống quê nhà, ẩn trốn trên núi Cổ Sơn thuộc tỉnh Phúc Kiến để xuất gia.
Vì lo sợ người trong gia đình tìm đến nên ngài đi vào núi sâu tu khổ hạnh, đói ăn đọt tùng lá dại, khát uống nước suối nước sương trong nhiều năm liền.
Sinh thời, Hòa thượng là người có công lớn trong việc chấn hưng Phật giáo Trung Hoa giữa những năm loạn lạc với nhiều biến động lịch sử, bắt đầu từ năm 1840 - thời điểm các đế quốc xâu xé Trung Hoa, cho đến sau năm 1949 khi nước CHND Trung Hoa ra đời.
Suốt cuộc đời hành đạo của mình, ngài luôn một lòng khiêm tốn, nhẫn nhục, chịu đựng mọi sự bất hạnh không một lời than vãn, ngay cả khi bị hành hạ tra tấn chết đi sống lại.
Thu phục lòng người bằng lòng từ bi
Theo các tài liệu ghi lại, Hòa thượng Hư Vân đã trùng tu, kiến tạo lại vài mươi ngôi chùa lớn nhỏ khắp cả nước.
Lúc nào cũng thế, một mình ngài chống tích trượng lên núi hoang.
Khi công trình xây cất sửa sang hoàn thành thì ngài giao lại cho chư tăng, rồi một mình chống gậy xuống núi.
Việc xây cất các tu viện trên núi dường như luôn có Long thần hộ pháp gia hộ nên kể từ lúc khởi công cho đến khi hoàn tất, muôn việc lành đều đến, chùa chiền luôn được tín thí bốn sự cúng dường.
Lúc quân Nhật xâm chiếm Trung Hoa, giao thông bị cắt đứt, những biến cố, tai nạn xảy ra dồn dập, Hòa thượng Hư Vân đã dạy dỗ tăng chúng tự nung ngói gạch, làm hồ, cưa gỗ, kiến tạo tự viện, đúc vẽ tượng Phật…
Vượt qua nhiều khổ nạn, tình hình chính trị xáo trộn, Hòa thượng vẫn kêu gọi tu bổ nhiều tu viện, chùa chiền đổ nát do chiến tranh, trùng tu hàng trăm tháp Tổ, chấn hưng Phật giáo…
Không chỉ hoằng pháp độ sinh, cứu giúp nhiều người, Hòa thượng Hư Vân còn cho mở các khóa Phật pháp, dạy dỗ hàng ngàn tăng chúng và truyền giới cho hàng trăm ngàn người giáo hóa chúng dân.
Khi cuộc cách mạng Tân Hợi nổi lên, triều Thanh thoái vị. Các tướng lĩnh thuộc chính quyền mới ỷ thời thế loạn lạc, đánh đuổi tăng ni, cướp phá chùa chiền, làm mưa làm gió khắp nơi.
Lúc ấy, vị tướng tỉnh Vân Nam là Lý Căn Nguyên, chuộng Nho học, ghét tăng sĩ, nhất là những người không chịu giữ giới luật, nên thừa cơ kéo quân lên núi đánh đuổi tăng chúng, phá chùa chiền.
Khi sắp lên núi, ông hỏi quan quân địa phương rằng tại sao Hòa thượng Hư Vân, một lão tăng nghèo hèn, mà lại thâu phục được lòng dân chúng như vậy, chắc phải có việc chi kỳ quái nên ra lệnh bắt giam ngài.
Khi nhìn thấy Hòa thượng Hư Vân, vị tướng với sắc mặt nóng giận, hỏi lớn:
- Phật giáo dùng để làm gì, có lợi ích chi?
Hòa thượng Hư Vân đáp:
- Phật giáo dùng để cứu đời, làm lợi ích cho nhân dân. Từ lời dạy đơn sơ đến lý lẽ thâm sâu đều vì tạo việc lành, dẹp trừ điều ác…
Từ xưa, chính quyền và tôn giáo cùng lập hạnh. Chính quyền lo việc trị an dân chúng. Tôn giáo lo dạy dỗ chúng dân làm lành, lánh ác…
Phật giáo dạy người trị bệnh trong tâm. Tâm là gốc của muôn ngàn sự vật, nếu gốc chân chính thì muôn việc đều bình an, trời đất luôn thái bình.
Lý Căn Nguyên bèn dịu sắc mặt xuống, hỏi:
- Vậy chứ còn tượng đồng, tượng gỗ để làm chi vậy, chỉ tốn bao tiền của dân chúng thôi chứ lợi ích gì?
Hòa thượng Hư Vân đáp:
- Lời Phật là tướng của pháp. Tướng biểu hiệu pháp. Nếu không có tướng biểu hiện thì người dân không thể biết đến pháp, hoặc họ không khởi tâm cung kính nể sợ.
Đối với con người, tâm nếu không cung kính, thì việc ác nào cũng dám làm, tạo thành họa loạn. Những tôn tượng trong chùa chiền thường được tạo bằng đất đá gỗ mộc, cũng giống như các tượng đồng ở các nước Đông – Tây.
Nói theo thế gian, những tôn tượng này, bất quá chỉ khiến cho chúng dân có chỗ nương tựa, cùng thầm khởi tâm cung kính tín phục, diệu dụng không thể nghĩ bàn, ngôn từ không chỉ diễn đạt.
Nếu thấy các tướng mà không phải tướng, tức thấy đức Như Lai!
Lý Căn Nguyên nghe lời phân giải rất vừa lòng, liền bảo lính hầu mang trà bánh ra đãi ngài, rồi hỏi:
- Nếu thế, tại sao các tăng sĩ không làm những việc tốt mà lại đi làm các việc kỳ quái, như những kẻ phế thải trong xã hội?
Hòa thượng Hư Vân đáp:
- Hòa thượng chỉ là danh xưng, có phàm có thánh, sai biệt rõ ràng.
Không thể nhìn thấy một hai ông tăng phạm giới, hư đốn mà lại khinh khi toàn thể tăng chúng được, cũng như người ta không thể phỉ báng Khổng Tử chỉ vì một hai Nho sinh hủ bại.
Nay tiên sinh thống lĩnh binh sĩ, tuy kỷ cương quân đội nghiêm minh nhưng có phải binh lính nào cũng đều thông minh chính trực như ngài đâu! Biển cả bao la vì chứa đựng muôn loài, không phân biệt cá tôm.
Tánh Phật pháp rộng như biển cả, không chi không dung chứa.
Chư Tăng nhậm thừa lời Phật dạy, hộ trì Tam Bảo, ẩn mật lạ kỳ, âm thầm hóa độ chúng sanh, diệu dụng rõ ràng, không phải là những người phế thải!
Tướng Lý nghe vậy đổi giận làm vui, giữ Hòa thượng Hư Vân lại để dùng cơm tối, đốt đuốc đàm đạo, với thái độ cung kính.
Mẩu chuyện trên là một trong nhiều câu chuyện nổi tiếng bàn về tài năng đức độ của Hòa thượng Hư Vân, được ghi chép lại trong tác phẩm Đường mây trên đất hoa.
Đây được xem là cuốn tự truyện về cuộc đời tu tập và hành đạo kéo dài suốt một trăm hai mươi năm của Hòa thượng Hư Vân, do Hòa thượng Thích Hằng Đạt và dịch giả Nguyên Phong phóng tác.
Đường mây trên đất hoa
Ban đầu, tác phẩm được dịch từ ấn bản tiếng Anh có tựa Empty Cloud (1959).
Tuy nhiên, nhận thấy bản dịch này còn nhiều thiếu sót nên dịch giả Nguyên Phong đã tham cứu thêm nhiều nguồn tài liệu khác để bổ sung, trong đó có quyển Biên niên tự thuật của Hòa thượng Hư Vân của cư sĩ Sầm Lữ Học.
Theo Nguyên Phong, Biên niên tự thuật của Hòa thượng Hư Vân mới là bản nguyên tác do chính Hòa thượng Hư Vân đọc cho các đệ tử của ngài ghi chép.
Bản thảo này sau đó được trao cho cư sĩ Sầm Lữ Học, vốn một đệ tử thân tín đã theo hầu ngài trong nhiều năm, để biên soạn và xuất bản.
Vì lẽ đó, tác phẩm Đường mây trên đất hoa được chia làm ba phần. Phần thứ nhất do chính Hòa thượng Hư Vân thuật lại đời mình.
Phần thứ hai là do các đệ tử của ngài ghi lại những sự việc xảy ra sau đó. Và phần thứ ba là lời giảng dạy của Hòa thượng trong hai khóa thiền thất dành cho những ai có ý nguyện muốn tu tập.
Cuốn sách không chỉ là tấm bản đồ chỉ dẫn cho những ai muốn tu tập mà còn là bức tranh sống động mô tả rõ tình trạng Phật giáo tại Trung Hoa vào cuối thế kỉ 19.
Ngoài giá trị về Phật học, tác phẩm còn mang giá trị rất lớn về mặt sử liệu nghiên cứu sau này.