Công nhân nhà máy đạn dược Scranton đang xử lý quả đạn pháo nóng đỏ trong ảnh chụp hồi tháng 2/2023. Ảnh: The Washington Post
Một âm thanh rít chói tai vang lên trong nhà máy khi những quả đạn pháo nóng đỏ được nhúng vào dầu sôi.
Richard Hansen, một cựu chiến binh Hải quân phụ trách giám sát cơ sở vũ khí này, giải thích cách chất lỏng 1.500 độ khóa các đặc tính hóa học tại chỗ để đảm bảo khi đạn được bắn - có lẽ trên chiến trường ở Ukraine - chúng sẽ phát nổ gây sát thương như được thiết kế.
"Đó là những gì chúng tôi làm" - Hansen nói - "Chúng tôi chế tạo những thứ để giết người".
Nhà máy Đạn dược Quân đội Scranton, một trong mạng lưới các nhà máy liên quan đến sản xuất đạn pháo 155 mm cho quân đội Mỹ, là cơ sở cho nỗ lực của chính quyền Tổng thống Biden nhằm đẩy nhanh việc cung cấp vũ khí mà Ukraine cần.
Kế hoạch tăng quy mô sản xuất đạn pháo trong hai năm tới của Lầu Năm Góc đánh dấu một bước đột phá trong nỗ lực giải quyết "cơn khát" vũ khí của Ukraine. Nhưng cuộc xung đột đã đặt ra những vấn đề sâu xa mà nước Mỹ phải vượt qua để sản xuất hiệu quả các loại vũ khí cần thiết, không chỉ để hỗ trợ các đồng minh mà còn để tự vệ cho chính mình.
Mặc dù tự hào về ngân sách quân sự lớn nhất thế giới - hơn 800 tỷ USD một năm - và ngành công nghiệp quốc phòng tinh vi nhất của mình, Mỹ từ lâu đã chật vật để phát triển và sản xuất hiệu quả các loại vũ khí giúp các lực lượng của họ vượt qua các nước cùng đẳng cấp về mặt công nghệ. Những thách thức đó giờ đây còn lớn hơn khi chiến sự đã quay trở lại châu Âu.
Ngay cả khi sự ủng hộ của công chúng đối với những khoản viện trợ khổng lồ dành cho Ukraine ngày càng giảm đi và gây chia rẽ hơn, cuộc xung đột đã làm dấy lên một cuộc thảo luận rộng rãi hơn về sự cần thiết phải xây dựng sự bền vững của ngành công nghiệp quốc phòng Mỹ và nghĩ ra những phương tiện mới để nhanh chóng mở rộng quy mô sản xuất vũ khí vào những thời điểm khủng hoảng. Một số nhà quan sát lo ngại Lầu Năm Góc vẫn chưa thể hiện đủ mạnh mẽ để bổ sung cho hàng tỷ USD vũ khí đã rời kho của nước này.
Nghiên cứu do Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược và Quốc tế (CSIS) thực hiện cho thấy sản lượng hiện tại của các nhà máy vũ khí Mỹ có thể không đủ để ngăn chặn sự cạn kiệt kho dự trữ các mặt hàng chính mà Mỹ đang cung cấp cho Ukraine. Ngay cả với tốc độ sản xuất tăng tốc, có thể sẽ mất ít nhất 5 năm để phục hồi kho tên lửa chống tăng Javelin, tên lửa đất đối không Stinger và các mặt hàng có nhu cầu khác.
Nghiên cứu trước đây được thực hiện bởi nhóm chuyên gia cố vấn của tờ Washington Post cho thấy một vấn đề phổ biến hơn: Tốc độ sản xuất chậm của Mỹ có nghĩa là sẽ mất tới 15 năm ở mức sản xuất thời bình và hơn 8 năm ở tốc độ thời chiến, để thay thế kho dự trữ lớn các hệ thống vũ khí như tên lửa dẫn đường, máy bay có người lái và máy bay không người lái vũ trang nếu chúng bị phá hủy trong trận chiến hoặc được tặng cho đồng minh.
"Đó là một hồi chuông cảnh tỉnh", Thượng nghị sĩ Jack Reed, Chủ tịch Ủy ban Quân vụ Thượng viện, cho biết, "Chúng ta phải có một cơ sở công nghiệp có thể đáp ứng rất nhanh."
Một năm sau khi cuộc xung đột ở Ukraine bắt đầu, viện trợ quân sự của Mỹ đã lên tới con số đáng kinh ngạc là 30 tỷ USD, tài trợ mọi thứ từ kính nhìn đêm cho đến xe tăng Abrams. Phần lớn vũ khí được lấy từ kho của Lầu Năm Góc. Các hệ thống khác được sản xuất tại các nhà máy ở Mỹ.
Nhưng nỗ lực trang bị vũ khí cũng đã khiến các quan chức ở Mỹ và châu Âu lo lắng làm cạn kiệt kho dự trữ quân sự của các quốc gia tài trợ và làm lộ ra những lỗ hổng trong năng lực sản xuất của họ.
Trong những tháng mùa đông lạnh giá, cuộc chiến trên bộ đã trở thành một cuộc giao tranh đẫm máu, sử dụng nhiều pháo binh, với việc các lực lượng Ukraine bắn trung bình 7.700 quả đạn pháo mỗi ngày, vượt xa sản lượng của Mỹ trước chiến tranh là 14.000 quả đạn 155 mm một tháng. Trong 8 tháng đầu xung đột, các lực lượng Ukraine đã phóng hết lượng tên lửa phòng không Stinger tích lũy trong 13 năm và tên lửa Javelin trong 5 năm, theo Raytheon - nhà sản xuất cả hai loại vũ khí này.
Colin Kahl, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng Mỹ phụ trách chính sách, nói với các nhà lập pháp vào tuần trước: "Những gì cuộc xung đột Ukraine cho thấy, thành thật mà nói, cơ sở công nghiệp quốc phòng của chúng ta không ở mức chúng ta cần để sản xuất đạn dược".
Vấn đề không chỉ ở đạn dược, mà ở đủ các mặt hàng được cung cấp cho Ukraine. Theo Mark Cancian, chuyên gia quốc phòng của CSIS, tốc độ sản xuất tại các nhà máy của Mỹ có nghĩa là sẽ mất hơn 10 năm để thay thế phi đội trực thăng UH-60 Black Hawk của Mỹ và gần 20 năm để thay thế kho dự trữ tên lửa không đối không tầm trung tiên tiến. Sẽ mất tối thiểu 44 năm để Lầu Năm Góc có thể thay thế hạm đội hàng không mẫu hạm của mình.
Ở châu Âu, các vấn đề cũng nghiêm trọng không kém. Tổng thư ký NATO Jens Stoltenberg đã cảnh báo hồi tháng 2 rằng thời gian chờ đợi sản xuất vũ khí cỡ nòng lớn đã tăng hơn gấp ba lần, có nghĩa là các mặt hàng được đặt hàng bây giờ sẽ không được giao trong hơn 2 năm. Tại Đức, nguồn cung cấp đạn dược của nước này được cho là chỉ đủ cho 2 ngày chiến đấu; còn ở Anh thì đủ cho 8 ngày.
Để giải quyết những vấn đề đó, các nhà lãnh đạo Liên minh châu Âu đang khám phá các biện pháp để tăng tốc sản xuất, có thể bằng cách sử dụng các thỏa thuận mua trước, như cuộc đua phát triển vaccine COVID-19.
Ở Ukraine, cuộc khủng hoảng đạn dược đang tồn tại. Tại những tiền tuyến như Bakhmut, lực lượng phòng thủ Ukraine nói rằng họ phải phân phối đạn dược vì nhận được ít hơn nhiều so với mức cần thiết.
May mắn cho Kiev là Nga, với ngành công nghiệp quốc phòng đang bị trừng phạt nặng nề, cũng gặp phải vấn đề tương tự. Theo ông Kyrylo Budanov, người đứng đầu cơ quan tình báo quân đội Ukraine, Điện Kremlin đã buộc phải giảm tốc độ các cuộc không kích do nguồn cung vũ khí chủ chốt ngày càng cạn kiệt, trong đó có tên lửa hành trình Kalibr và Kh-101. Gần đây, ông cho biết việc sản xuất đủ tên lửa cho một cuộc tấn công lớn hiện mất tới hai tháng.