Hình ảnh một chiếc máy bay Yak-11 tung cánh ngoạn mục phía trên một vùng đồi.
Máy bay Yak-11 khi đậu trên đường băng.
Máy bay Yak-11 được chế tạo trong khoảng từ năm 1944-1955. Máy bay được thiết kế làm tiêm kích hoặc máy bay huấn luyện.
Yak-11 bắt nguồn từ máy bay Yak-3 – một tiêm kích lợi hại của Liên Xô trong Thế chiến 2.
Dòng máy bay Yak được đánh giá là một trong các loại tiêm kích nhanh nhất, cơ động nhất từng được thiết kế trong Thế chiến 2.
Máy bay Yak giúp Hồng quân giành ưu thế trước tiêm kích BF-109 của phát xít Đức trong trận Barbarosa và các cuộc đối đấu khác trên không.
Một nhân chứng trong Thế chiến 2 kể rằng phát xít Đức từng rải truyền đơn, huênh hoang thách thức Liên Xô tung ra một máy bay nào đáng để đánh nhau với chúng.
Chiến đấu cơ Yak chính là câu trả lời của Liên Xô vào năm 1943. Riêng Yak-3 là loại máy bay tiêm kích được Liên Xô chế tạo nhiều nhất trong Thế chiến 2.
Yak-11 ra đời sau đó, sử dụng nhiều bộ phận của Yak-3. NATO đặt cho Yak-11 biệt danh "Moose". Còn phe Warsaw thì gọi đây là Chim ưng.
Việc chế tạo Yak-11 tiếp tục đến năm 1955.
Dù không còn dùng cho mục đích chiến tranh, Yak-11 đã trở thành một chiến đấu cơ cổ phổ biến trong nhiều cuộc triển lãm máy bay cổ hiện nay.
Yak-11 vẫn được sử dụng cho mục đích dân sự ở nhiều nước như Bỉ, Anh, Pháp, Thụy Điển và Cộng hòa Séc.
Tốc độ tối đa của máy bay là 645km/h. Trọng lượng tối đa của máy bay là 2.902kg. Máy bay sử dụng động cơ 1.350 mã lực./.