Ý tưởng đầu tiên về việc phát triển một mẫu xe chiến đấu bộ binh (IFV) thế hệ mới trang bị cho Quân đội Ba Lan được thai nghén tại Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển Cơ khí Ba Lan (OBRUM) từ năm 1993.
BWP-2000 có thiết kế dựa trên khung gầm xe bọc thép chở quân đa năng SPG-1M Kalina (trong khi SPG-1M Kalina thực chất được phát triển từ xe kéo pháo bánh xích MT-S của Liên Xô do Ba Lan sản xuất trong nước theo giấy phép).
Xe kéo pháo bánh xích MT-S
Hai mẫu thử đầu tiên của BWP-2000 hoàn thành vào năm
1997, một trong số đó được trang bị tháp pháo T60/70A từ nhà sản xuất vũ khí
OTO Melara danh tiếng của Ý, lắp pháo tự động cỡ 60 mm cùng 2 tên lửa chống
tăng có điều khiển.
BWP-2000 có thiết kế cũng như cách bố trí các thành phần tương tự như nhiều xe chiến đấu bộ binh cổ điển với động cơ đặt phía trước, khoang chiến đấu nằm ở giữa, khoang chở quân sức chứa 8 lính với đầy đủ trang bị nằm ở phía sau. Bộ binh ra khỏi xe bằng một cửa lớn ở đuôi. Kíp lái 3 người bao gồm trưởng xe, lái xe và pháo thủ.
Xe được bọc giáp dày 10 - 17 mm, cho khả năng chống đạn đạt cấp 2 - 3 theo chuẩn STANAG 4569. Theo quảng cáo từ nhà sản xuất, BWP-2000 chịu được đạn xuyên giáp cỡ 35 mm ở vòng cung phía trước, đạn 12,7 mm ở nóc và hông, các vị trí còn lại có khả năng chống đạn bộ binh cỡ nhỏ và mảnh pháo. BWP-2000 có thể gắn thêm các tấm giáp phụ hay giáp phản ứng nổ.
BWP-2000 với cửa đổ quân lớn điều khiển bằng điện ở phía sau
Về hỏa lực, BWP-2000 dự định được trang bị nhiều kiểu tháp pháo gắn pháo tự động cỡ nòng từ 25 đến 60 mm, các kế hoạch lắp pháo cỡ nòng lớn hơn cũng đã được đề xuất.
Với phương án sử dụng tháp pháo OTO Melara HITFIST T60/70A, hỏa lực chính của BWP là pháo tự động cỡ 60 mm có chiều dài nòng gấp 70 lần đường kính, cho tốc độ tác xạ khoảng 30 phát/phút, nó bắn được nhiều loại đạn nổ phá mảnh hay đạn xuyên giáp.
So sánh với các mẫu xe chiến đấu bộ binh phổ biến trên thế giới hiện nay thường mang pháo cỡ 20 - 30 mm thì hỏa lực từ pháo tự động 60 mm của BWP-2000 khủng khiếp hơn rất nhiều. BWP-2000 còn có 2 bệ phóng tên lửa chống tăng TOW, giúp nó đủ sức đánh bại cả xe tăng chiến đấu chủ lực (MBT).
Vũ khí phụ của BWP-2000 là súng máy đồng trục cỡ 7,62 mm (cơ số đạn 2.000 viên) cùng tùy chọn súng máy phòng không 12,7 mm gắn trên nóc. Hai bên tháp pháo là 2 cụm 4 ống phóng đạn khói ngụy trang cỡ 81 mm.
BWP-2000 được lắp đặt hệ thống điều khiển hỏa lực tiên tiến, bao gồm kính ngắm ngày đêm có kênh ảnh nhiệt, thiết bị đo xa laser của pháo thủ và hệ thống kính ngắm toàn cảnh ngày - đêm có ổn định dành cho trưởng xe, cung cấp khả năng tìm kiếm, phát hiện, tiêu diệt mục tiêu trong nhiều điều kiện khác nhau.
Tháp pháo OTO Melara HITFIST T60/70A lắp pháo tự động cỡ 60 mm
Trái tim của BWP-2000 là động cơ diesel V-46-6 (tương tự như xe tăng T-72) công suất 780 mã lực, giúp chiếc IFV nặng 29 tấn đạt tốc độ tối đa 70 km/h trên đường tốt, dự trữ hành trình 500 km, vượt chiến hào rộng 2,8 m, vượt vật cản cao 1 m, lội nước sâu 1,5 m. BWP-2000 không có khả năng bơi lội mặc dù trong thiết kế ban đầu nhà sản xuất đã tính tới.
BWP-2000 có khoang động cơ đặt phía trước
Tuy rằng đã vượt qua các bài thử nghiệm cơ bản nhưng do gặp vấn đề về tài chính, Quân đội Ba Lan muốn dồn lực cho nhiều dự án trọng điểm khác như xe tăng PT-91 hay trực thăng W-3 Sokol... cho nên chương trình BWP-2000 không được ưu tiên.
Ngoài ra, việc xuất hiện những mẫu xe chiến đấu bộ binh khác như Anders với một số ưu điểm về đồng bộ và công nghệ tiên tiến hơn (do ra đời sau), BWP-2000 gần như đã bị chính thức khai tử.