Trong những diễn biến căng thẳng gần đây, việc Triều Tiên và Iran luôn đe dọa đánh chìm tàu sân bay Mỹ "chỉ với một đòn tấn công". Tuy nhiên, các chuyên gia quân sự tỏ ra hoài nghi về những tuyên bố trên khi nhìn thực lực vào cụm tàu sân bay của Hải quân Mỹ cũng như vũ khí và khả năng hiện có của Triều Tiên và Iran.
Sức mạnh của cụm tàu sân bay Mỹ
Cụm tàu sân bay Mỹ luôn là biểu tượng sức mạnh, niềm tự hào, đồng thời là công cụ hữu hiệu để Mỹ răn đe các đối thủ ở bất kỳ khu vực nào trên thế giới.
Trong tác chiến, sức mạnh tiến công của một cụm tàu sân bay Mỹ là liên đội không quân với hơn 70 máy bay và 1.800 thủy thủ.
Theo các chuyên gia quân sự, các máy bay chiến đấu của Hải quân Mỹ có thể xuất phát từ cụm tàu sân bay, bất ngờ tiến công từ khoảng cách hàng trăm km. Cụm tàu sân bay USS John C.Stennit của Mỹ biên chế Liên đội không quân số 9 (CVW-9) với hơn 70 máy bay.
Trong đó hơn 1/2 là tiêm kích hạm F/A-18E/F Super Hornet, đây là lực lượng tiến công chủ yếu của cụm tàu sân bay Mỹ, có khả năng tiến công các mục tiêu trên không, trên mặt biển, mặt đất của đối phương.
Ngoài tiêm kích hạm ra, liên đội còn có 19 máy bay trực thăng SH-60 Seahawk thực hiện tác chiến chống ngầm, chống tàu mặt nước, tiếp tế cho tàu sân bay khi hoạt động xa bờ; 5 máy bay tác chiến điện tử EA-18G Glowler (được phát triển từ mẫu F/A-18) có nhiệm vụ gây nhiễu, chế áp điện tử và tiến công các hệ thống phòng không của đối phương.
Bên cạnh đó còn có 4 máy bay trinh sát cảnh báo sớm E-2C có nhiệm vụ phát hiện, chỉ thị vị trí máy bay đối phương cho các lực lượng trên cụm tàu sân bay. 2 máy bay vận tải C-2 Greyhound sẵn sàng chở quân và hàng tiếp tế đến và đi khi ở ngoài phạm vi hoạt động của máy bay trực thăng MH-60.
Quân số phi công, thủy thủ trên tàu sân bay khoảng 1.800 người, được huấn luyện bài bản, phối hợp thuần thục, tạo nên sức mạnh tác chiến gần như bất khả xâm phạm của cụm tàu sân bay Mỹ.
Cụm tàu sân bay Mỹ USS John C. Stennis.
Biên đội tàu chiến hộ tống
Tàu sân bay Mỹ (và cả các tàu sân bay của các quốc gia khác) không bao giờ hoạt động đơn lẻ, mà nó có một biên đội tàu hộ tống gồm ít nhất là 8 tàu chiến, tạo thành cụm tàu sân bay. Trong các tàu hộ tống, "hầm hố" nhất là tàu khu trục mang tên lửa dẫn đường lớp Arleigh Burke và tàu tuần dương lớp Ticonderoga.
Tàu khu trục Arleigh Burke là "xương sống" của hạm đội hải quân Mỹ, được trang bị hệ thống phòng thủ tên lửa Aegis, năng lực công thủ toàn diện, trong đó có cả khả năng phòng thủ tên lửa đạn đạo tầm cao.
Tàu tuần dương Ticonderoga được trang bị tên lửa phòng không RIM-161 Standard (SM-3), kết hợp với hệ thống Aegis và radar AN/SPY-1 có khả năng tiêu diệt các mục tiêu ở cự ly đến 500 km và chiều cao đến 160 km.
Một thành phần không thể thiếu của của cụm tàu sân bay là tàu ngầm tiến công nhanh lớp Los Angles, có nhiệm vụ trinh sát, phát hiện, tiến công các tàu ngầm đối phương ở khoảng cách xa, bảo vệ cụm tàu sân bay trước mọi nguy cơ bị tiến công bất ngờ từ trong lòng biển.
Hệ thống phòng thủ đa tầng
Tàu sân bay của Mỹ được trang bị các hệ thống vũ khí, trang bị phòng thủ công nghệ cao, uy lực tiến công mạnh, tầm bắn xa để triệt tiêu các mối đe dọa, nhất là các tên lửa chống hạm và tàu ngầm của đối phương.
Các hệ thống phòng thủ gồm nhiều thiết bị cảm biến có độ nhạy cao, hoạt động gần như tự động hoàn toàn mà ít có sự can thiệp của con người. Hệ thống phòng thủ tầm cực gần như pháo Gatling cỡ nòng 20mm, có tốc độ bắn đến 50 phát/giây, khó có thể vũ khí nào tiếp cận được tàu sân bay mà không bị ngăn chặn quyết liệt.
Liên đội không quân bố trí trên tàu với hơn 70 máy bay, trong đó có phi đội máy bay cảnh giới tầm xa, có thể phát hiện mục tiêu từ rất xa để có kế hoạch đối phó. Các phi đội máy bay trực thăng săn ngầm phát hiện các mối nguy hại từ dưới lòng biển.
Tiêm kích F-18 và tàu sân bay USS John C. Stennis.
Toàn bộ hệ thống cảm biến và vũ khí phòng thủ của tàu sân bay đều được kết nối mạng trung tâm chỉ huy trên boong để phối hợp tiến công lực lượng đối phương.
Khi tác chiến, tàu sân bay Mỹ được triển khai theo cụm tác chiến, gồm nhiều tàu khu trục mang tên lửa dẫn đường Aegis; đây là hệ thống phòng thủ tên lửa và phòng không hiện đại, có khả năng triệt tiêu mọi mối đe dọa tiềm tàng, kể cả tên lửa đạn đạo của đối phương.
Hệ thống Aegis được kết nối với các hệ thống tiến công và phòng thủ khác trên các tàu chiến mặt nước để tiêu diệt, phá hủy tàu ngầm, tàu mặt nước, thủy lôi; vô hiệu hóa các hệ thống cảm biến dẫn đường của tên lửa đối phương. Khi kết hợp với lực lượng không quân trên tàu sân bay, lực lượng tàu chiến sẽ nhanh chóng chế áp các hệ thống dẫn đường tiến công của đối phương.
Bên cạnh đó, cụm tàu sân bay Mỹ thường được biên chế các tàu ngầm tiến công, chuyên tiêu diệt các mục tiêu trong lòng biển và trên mặt nước của đối phương từ xa, nhờ hệ thống trinh sát tầm xa của cụm tàu sân bay. Như vậy các hệ thống tàu nổi, tàu ngầm của đối phương khó có cơ hội tiếp cận tàu sân bay để phóng tên lửa đối hạm hay ngư lôi.
Khả năng cơ động, tác chiến linh hoạt
Mặc dù có hình dáng đồ sộ, lượng giãn nước lớn (ví dụ tàu sân bay USS Carl lớp Nimitz, có chiều dài 333 m, rộng 77 m, lượng giãn nước 101.000 tấn), nhưng tàu sân bay của Mỹ có tốc độ rất cao, có thể di chuyển với vận tốc 56 km/h, khiến cho các tàu ngầm tốc độ chậm hơn rất khó phát hiện, đeo bám.
Theo tính toán, chỉ trong 30 phút khi bị đối phương phát hiện, phạm vi hoạt động của tàu sân bay được nới rộng nên tới 1800 km2, và sau 90 phút, nó có thể ở bất cứ đâu trong phạm vi diện tích đến 15.500 km2.
Các tàu sân bay lớp Nimitz và Ford hiện nay cấu tạo thường có 25 tầng, cao 76 m. Tàu có hàng trăm khoang chống nước và lớp vỏ thép dày, nên không có một ngư lôi, thủy lôi hay tên lửa thông thường nào có khả năng gây thiệt hại nghiêm trọng cho tàu.
Bên cạnh khả năng trên, việc tác chiến linh hoạt giúp tàu sân bay Mỹ tối ưu hóa khả năng tồn tại trước các mối đe dọa. Ví dụ tàu sân bay sẽ không tiến vào vùng biển có nhiều thủy lôi khi các tàu quét mìn chưa vô hiệu hóa được số mìn này.
Tàu sân bay cũng chỉ hiện diện ở vùng "biển mở" thay vì những vùng "biển kín", nơi các tàu chiến đối phương có thể trà trộn vào các tàu thuyền dân sự để tiến công.
Trên biển, tàu sân bay thực hiện di chuyển liên tục, khiến đối phương khó phát hiện, đeo bám; đồng thời tàu sân bay liên tục được kết nối với các khí tài trinh sát phát hiện mục tiêu của đối phương từ đáy biển (hệ thống trinh sát thủy âm), trên mặt biển, mặt đất, trên không (các loại radar, quan sát quang điện tử) đến vũ trụ (vệ tinh).
Các tàu khu trục Mỹ.
Do vậy, các hành động theo bám hay tiến công tàu sân bay của đối phương sẽ nhanh chóng bị phát hiện, từ đó giúp chỉ huy tàu đưa ra các biện pháp đối phó hiệu quả.
Đứng trước các mối đe dọa mới; Hải quân mỹ đã mua sắm nhiều trang bị công nghệ tiên tiến để trang bị cho tàu sân bay đối phó hiệu quả với các mối đe dọa mới. Trên các tàu sân bay hiện nay của Mỹ đều được ứng dụng công nghệ cao, có thể kết nối tất cả các hệ thống khí tài trong một khu vực để tối đa hóa hiệu quả tác chiến.
Ví dụ công nghệ Kiểm soát hỏa lực - phòng không tích hợp (NIFCA) đã giúp kết nối mọi hệ thống chiến đấu, đồng thời đối phương khó có thể thâm nhập vào hệ thống.
Một loạt hệ thống công nghệ mới khác cũng đang được nghiên cứu, như hệ thống chống khả năng trinh sát thâm nhập của máy bay tiêm kích tàng hình thế hệ 5, các thiết bị gây nhiễu để đánh lừa hệ thống dẫn đường tên lửa tiên tiến của đối phương.
Như vậy chỉ bằng những vũ khí thông thường thì những tuyên bố đe dọa tiêu diệt tàu sân bay Mỹ có thể chỉ là tuyên bố mạnh miệng như thường thấy của Triều Tiên hay Iran, chứ thực tế họ chưa có khả năng này. Đây là kết luận của các chuyên gia quân sự, như lời bộ trưởng quốc phòng Mỹ James Mattis phát biểu tại hội nghị ở Tel Aviv, Israel.
"Chúng ta đã nghe thấy những lời này nhiều lần trước đây, từ ngữ của họ không thể hiện sự trung thực".
Tàu sân bay USS Abraham Lincoln (CVN-72) hoạt động trên biển.