Sự ra đời của YB-60
Vào năm 1941, Consolidated Vultee Aircraft (Convair) Corporation đưa ra ý tưởng phát triển B-36G. Đó sẽ là một máy bay ném bom cánh xuôi sử dụng động cơ phản lực dựa trên khung B-36F, thế hệ thứ 4 của B-36 Peacemaker.
Việc thiết kế được đề nghị chính thức từ nhà thầu, rằng B-36G có thể chuyển đổi từ máy bay phản lực thành máy bay turbine cánh quạt. Hơn nữa, B-36 còn có tiềm năng được nâng lên các tiêu chuẩn cấu hình mới.
Một loạt các đặc điểm quân sự sau Thế chiến II cho máy bay ném bom hạng nặng đã được ban hành vào ngày 23/11/1945. Tuy được sửa đổi nhiều lần, nhưng đến năm 1950, các oanh tạc cơ thử nghiệm vẫn chưa đáp ứng được hiệu suất tổng thể và tầm bay dài.
Do vậy Không quân Mỹ cho rằng phải đến năm 1955, máy bay ném bom chiến lược có khả năng mang vũ khí hạt nhân mới đi vào hoạt động.
Một lá thư (không phải là thỏa thuận chính thức) bổ sung vào hợp đồng chế tạo B-36 và được ủy quyền cho Convair để chuyển đổi 2 chiếc B-36F thành B-36G, biến thể lắp động cơ phản lực nhưng có thể chấp nhận động cơ turbine cánh quạt.
Chiếc YB-36G đầu tiên sẵn sàng cho chuyến bay thử nghiệm trong tháng 12/1951; chiếc thứ 2 vào tháng 2/1952.
B-36G có rất ít điểm chung với B-36F, do đó tên chỉ định “B-60” được gán cho nó, vì sự thay đổi đáng chú ý trong ngoại hình và cải thiện hiệu suất so với B-36.
YB-60 (trước) và B-36 (sau)
Một sự hiểu lầm liên quan đến cấu hình của nguyên mẫu B-60 buộc Convair giới thiệu trong tháng 8/1951 rằng lúc đầu chỉ có 2 khung máy bay được phát triển.
Chấp nhận chịu trách nhiệm đối với sai sót, các nhà thầu cũng đề nghị nguyên mẫu YB-60 thứ 2 được hoàn thành như một mô hình chiến thuật đầy đủ.
Convair cho rằng mỗi mẫu thử sẽ phải có thông số kỹ thuật riêng biệt, Không quân đã đồng ý. Sau một cuộc họp 2 ngày, cấu hình chiến thuật cơ bản đã được thiết lập.
Chiếc B-60 có cánh chính dạng mũi tên xuôi và cánh đuôi cũng xuôi về phía sau. Máy bay có mái che radar trước mũi mới, lắp đặt hệ thống năng lượng phụ trợ tiên tiến hơn và 8 động cơ phản lực Pratt & Whitney J57-P-3 dưới cánh.
Tính năng đặc biệt của YB-60 là đuôi mở rộng cho phép nó hoạt động ở độ cao thấp, chỉ bay cách mặt đất có 1.200 m khi khối lượng cất cánh lên tới 109 tấn.
YB-60 trong một chuyến bay thử nghiệm, có thể thấy cánh chính và cánh đuôi vuốt ngược ra sau (kiểu mũi tên xuôi)
Quá trình thử nghiệm của YB-60
Nguyên mẫu YB-60 cất cánh lần đầu tiên vào ngày 18/4/1952, chỉ 12 ngày sau khi mẫu thử nghiệm động cơ J57-P-3 thứ 8 đến nhà máy Fort Worth của Convair.
Chuyến bay kéo dài 66 phút đã bị cản trở bởi thời tiết xấu, nhưng 2 chuyến tiếp theo trong cùng tháng đã hoàn toàn thành công. YB-60 ngừng bay vào ngày 20/1/1953, khi Không quân hủy bỏ giai đoạn thứ hai của chương trình.
Chiếc đầu tiên đã bay 66 giờ, tích lũy trên 20 chuyến bay. Nguyên mẫu YB-60 thứ 2, mặc dù hoàn thành tới 93% nhưng đã bị dỡ bỏ.
Nhìn chung kết quả thử nghiệm là đáng lo ngại, bởi vì YB-60 hiển thị một số thiếu sót. Trong đó có dao động của động cơ, cơ cấu điều khiển tự chọn, cánh lái rung lắc và các vấn đề với hệ thống điều khiển điện.
YB-60 sử dụng 8 động cơ phản lực J57-P-3 lắp trong 4 vỏ bọc ở dưới cánh, mỗi vỏ bọc trang bị 2 động cơ
Quyết định hủy bỏ chương trình YB-60 là không thể tránh khỏi. Ngay từ đầu, mục đích duy nhất của dự án chỉ là giúp Không quân Mỹ tìm kiếm một máy bay kế nhiệm B-36.
Mặc dù không có sự cạnh tranh chính thức, nhưng chiếc YB-52 (sau này trở thành B-52) đã chứng minh hiệu suất tốt và tiềm năng cải tiến lớn hơn so với YB-60.
YB-60 bị thua bởi sự hạn chế tốc độ áp đặt bởi các đặc điểm cấu trúc. Ngoài ra, tính ổn định cũng không đạt yêu cầu vì lực khí động học cao tác dụng trên các bề mặt điều khiển và hiệu quả thấp của các cánh lượn.
Chương trình YB-60 đã bị hủy bỏ vào mùa hè năm 1952, thử nghiệm khung thân kết thúc vào tháng 5/1953. Chi phí cuối cùng của chương trình là 14.366.022 USD, con số này có được nhờ thỏa thuận giữa Không quân với các nhà thầu.
Không quân Mỹ đã tháo dỡ 2 nguyên mẫu YB-60 vào cuối tháng 6/1954.
Thông số kỹ thuật cơ bản của YB-60
Phi hành đoàn: 5 người.
Chiều dài: 52,1 m.
Sải cánh: 62,8 m.
Chiều cao: 18,4 m.
Diện tích cánh: 486,7 m2.
Trọng lượng cất cánh tối đa: 140.000 kg.
Động cơ: 8 động cơ phản lực Pratt & Whitney J57-P-3, lực đẩy 38 kN mỗi chiếc.
Tốc độ tối đa: 815 km/h ở độ cao 8.915 m.
Tầm hoạt động: 13.000 km.
Trần bay: 16.000 m.
Tốc độ leo cao: 5,38 m/s.
Vũ khí: 2 pháo 20 mm ở đuôi cùng 33.000 kg bom.