Tiếp sau câu chuyện thú vị, ít biết về tấm các-vi-dít của Đại tướng Võ Nguyên Giáp, nữ nhà báo Lady Barton đã kỳ công đi tìm nguồn gốc, bút tích ghi trên tấm danh thiếp đó.
Bà Lady Barton viết: Khi quay về Hà Nội, tôi đến thăm hàng xóm của mình - ông Phạm Hồng Cư và phu nhân là bà Đặng Thị Hạnh. Bà Hạnh, một giáo sư văn học Pháp, là em của phu nhân Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Từng là một trong những người chắp bút cho Tướng Giáp thời chống Mỹ, Hồng Cư tiếp tục cộng tác với Văn phòng Đại tướng nhiều năm, sau khi ông về hưu khoảng giữa những năm 1990.
Tấm danh thiếp của Đại tướng Võ Nguyên Giáp
Ngày 2/9/1945, chưa đầy 20 tuổi, Hồng Cư có mặt trong lực lượng tự vệ chiến đấu, giữ an ninh cho lễ Tuyên ngôn độc lập tại quảng trường Ba Đình. Tôi mở máy tính cho hai ông bà xem tấm danh thiếp lưu trên màn hình.
“Ồ, hay nhỉ”, hai ông bà đồng thanh.
Tôi có nhiều câu hỏi. Tôi đã nhận biết được chữ ký ông Giáp trên mặt sau của tấm danh thiếp. Nhưng muốn được chắc chắn, tôi hỏi: “Thông điệp trên tấm các-vi-rít này do tay ông Giáp viết?”
“Chắc chắn”, họ trả lời ngay.
“Nhưng văn bản tiếng Anh này khá chuẩn. Có chắc Võ Nguyên Giáp đã viết thông điệp này? Hay ai đó chấp bút tiếng Anh, rồi ông Giáp chép lại?” - tôi hỏi tiếp.
“Không đâu”, bà Hạnh nói ngay - “Ông Giáp biết tiếng Anh khá thạo, đặc biệt có thể viết bằng tiếng Anh chuẩn. Rất chuẩn! Đây chính là thông điệp của ông ấy. Thời ấy không ai viết giúp ông ấy đâu”.
“Vậy thì, “M. Buu” phải chăng là ông Tạ Quang Bửu?” - tôi hỏi.
“Chắc chắn như vậy”, Hồng Cư đáp.
“Nhưng làm sao biết được?” - Tôi gạn hỏi. Tôi thường làm việc với các cựu chiến binh Việt Nam, họ luôn cho tôi được “hỏi khó” để đảm bảo độ chính xác của các sự kiện và nhân vật lịch sử.
“Tôi từng được làm việc với Tạ Quang Bửu một số năm”, tướng Hồng Cư kể, rồi ông chỉ sang cửa một nhà gần đó - “Nhân tiện, bà (quả phụ) Tạ Quang Bửu hiện sống kề liền đây”.
Sau đó ông chỉ phần trên của tấm danh thiếp, hiện trên màn hình máy tính của tôi: “Nhưng phần chữ viết tay trên cùng của tấm thiếp không phải chữ của Võ Nguyên Giáp, mà là của Tạ Quang Bửu”.
“Ông chắc là như thế?” - tôi hỏi lại.
“Chắc chắn” - Hồng Cư đáp.
Nữ nhà báo Lady Barton
“Thế còn L’ancienne Hotel de la Residence Superieure (Trụ sở cũ của Tòa Khâm sứ Bắc Kỳ) nay ở đâu?” - tôi hỏi.
“Tôi sẽ giải thích”, Hồng Cư đáp và giải thích: “Hãy nhìn chữ viết tắt “C.P.N.D.L.T.V.N.” ở dưới cùng tấm thiếp. Nó nghĩa là: Chính phủ Nhân dân Lâm thời Việt Nam. Chúng ta không rõ ngày tháng của tấm thiếp. Nhưng đây là thời kỳ quân Nhật còn đóng tại nơi mà nay là Phủ Chủ tịch. Chính phủ lâm thời đóng tại nơi mà nay ta gọi là Nhà Khách Chính phủ”.
“Nghĩa là tòa Nhà khách trên đường Ngô Quyền?”, tôi hỏi - “Bên kia đường, là khách sạn Metropole?”.
“Đúng vậy”, ông trả lời - “Nhưng xem này. Thật thú vị. Có cả số máy điện thoại trực”.
“Thế còn người nhận, ông nghĩ sao về phái bộ quân sự Hoa Kỳ?” - tôi hỏi.
“Vâng, người nhận thiếp kèm giấy giới thiệu này”, tướng Hồng Cư đáp - “Hẳn là Archimedes Patti, Trưởng phái bộ Mỹ ở Hà Nội. Patti là tác giả cuốn “Tại sao Việt Nam?”. Đại tướng Võ Nguyên Giáp lúc đó ở cương vị Bộ trưởng Nội vụ, có chức trách giao thiệp với trưởng đoàn Mỹ”.
Trung tướng Phạm Hồng Cư (bên trái) và nhà báo, Đại tá Trần Hồng
Chúng tôi bàn tiếp về thông điệp và về niềm hy vọng tràn trề trong câu: “Chúng tôi sẽ rất biết ơn phái bộ Hoa Kỳ về việc tạo điều kiện cho ông Bửu làm việc cho tới khi thiết lập được quan hệ chính thức (giữa hai quốc gia)”.
Phần tưởng tượng trong não bộ của tôi luôn bận rộn với các câu hỏi và các hình dung có tính giả định: Võ Nguyên Giáp, Tạ Quang Bửu, Hồng Cư, và những người thuộc thời đại ấy, đã đi vào lịch sử bằng việc tham gia vào cuộc Cách mạng tháng 8/1945 - nếu phe thực dân không cố tình bẻ ghi hướng tài năng của họ vào cuộc chiến 30 năm (1945 – 1975 giành độc lập, thống nhất cho Việt Nam), họ sẽ chọn để cống hiến sức sống của mình cho nghiệp nào của xã hội dân sự?
Vào thời trẻ của mỗi người Việt, theo tôi, chắc ai cũng đã nghĩ trở thành thầy – một nghề được xem là nghề cao quý nhất ở Việt Nam - đất nước chịu ảnh hưởng nặng của đạo Khổng, vốn dĩ nhấn mạnh sự học.
Khi còn trẻ, Võ Nguyên Giáp từng viết những bài báo chín chắn, nhờ khảo sát, nghiên cứu kỹ càng, thậm chí ông viết cả một cuốn sách về chính trị kinh tế học.
Hôm nay, ông vẫn là một sử gia lừng danh. Khi còn học tiểu học, Tạ Quang Bửu đã nổi tiếng tại trường Quốc học Huế, do những sáng chế của mình. Lẽ ra ông Bửu đã khám phá hay phát minh được gì sau khi trở thành cử nhân (nếu không có chiến tranh). Con của ông Hồng Cư nói cha mình lẽ ra đã trở thành thầy dạy toán (tôi thì nghĩ – thầy dạy văn).
Hôm nay, tướng Hồng Cư kết hợp cả hai tài năng để viết về các sự kiện lịch sử: dùng những cảm xúc văn học kết nối với toán, để thể hiện mối liên hệ chưa từng đề cập tới, giữa những quan sát kỹ lưỡng với cách hành động chính xác, hợp quy luật.
Tướng Giáp, trong suốt một chiều dài của lịch sử hiện đại, được ghi danh không chỉ như một danh tướng thắng cả quân Pháp và quân Mỹ, mà còn như một tướng soái vĩ đại nhất của thế kỷ XX và chắc là của lịch sử nhân loại. Nhưng còn một sự thật đau lòng nữa, là cùng thời với tướng Giáp, nhiều người thuộc thế hệ trẻ ở cả hai phía cuộc chiến, hoặc đã phải nằm xuống do chiến tranh, hoặc những năm đẹp nhất của tuổi xuân vì thời chiến mà tiêu tan.
Theo tôi, những mất mát như thế kết tinh trong lời bình có phần nuối tiếc của Tướng Giáp: “Nếu không có chiến tranh, chắc tôi vẫn làm nghề giáo”.
Người dich: Lê Thành