Sức mạnh của Nga ở Bắc Cực là không thể chối cãi với khả năng phá băng, quân sự và nghiên cứu vượt trội so với các quốc gia khác trong khu vực, như Mỹ hoặc Na Uy. Lợi thế về vị trí và sự ấm lên toàn cầu khiến băng tại Bắc Cực tan chảy cho phép Moscow ngày càng mạnh tay và dồn nhiều sự ưu tiên cho việc phát triển tuyến hàng hải rìa Bắc Cực mang tên Tuyến đường biển Bắc (NSR). Ảnh: Căn cứ tàu phá băng hạt nhân Rosatomflot ở Murmansk, Nga.
Tuyến đường biển phía Bắc sẽ cho phép Nga trở thành một bên tham gia chính trong quá trình vận chuyển hàng nghìn tỷ đô la thương mại hàng năm, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát triển và khai thác các lãnh thổ của Nga ở Viễn Bắc - bao gồm cả trữ lượng dầu và khí đốt khổng lồ chưa được khai thác.
Moscow đã chi rất lớn cho việc phát triển đội tàu phá băng hùng mạnh và tàu quân sự nhằm đảm bảo an ninh nói chung và sự vận hành trơn tru năng lực vận tải trên Tuyến đường NSR. Có thể nói mức chi cho hoạt động ở khu vực này của Nga thấp hơn Mỹ song có mức hiệu quả hơn nhiều.
Ví dụ: Đầu năm nay đã có thông tin rằng, Lực lượng bảo vệ bờ biển Mỹ buộc phải trì hoãn việc đưa vào hoạt động một tàu phá băng lớp vùng cực mới - Polar Sentinel- cho đến năm 2027. Mỹ hiện chỉ vận hành hai tàu phá băng: tàu lớn Polar Star và tàu hạng trung Healy.
Nhưng Nga thời gian qua đã liên tục ký các hợp đồng đóng tàu phá băng hạt nhân lớp Arktika thứ sáu và thứ bảy. Các tàu mới sẽ tham gia cùng hơn 50 tàu phá băng thuộc các lớp khác nhau đã hoạt động.
Hạm đội tàu phá băng đa năng của nhà nước và tư nhân Nga bao gồm hơn 40 tàu, bao gồm cả tàu chạy bằng năng lượng hạt nhân, diesel-điện và diesel.
Hồi tháng 10/2022, Nga đã treo cờ trên 2 tàu phá băng hạt nhân Ural và Yakutia mới hoàn thành thuộc loại mạnh nhất thế giới lớp LK-60. 4 tàu phá băng khác hiện đang được chế tạo trong lớp này.
Nga đã dành nhiều thập kỷ và hàng tỷ đô la để củng cố cơ sở hạ tầng ở Bắc Cực, xây dựng hoặc sửa chữa 16 cảng nước sâu và 14 sân bay, thành lập một bộ chỉ huy quân sự ở Bắc Cực, đồng thời thiết lập cơ sở hạ tầng phòng không và tìm kiếm cứu nạn khu vực để tạo điều kiện thuận lợi cho an ninh và an toàn cho việc đi lại của các tàu thương mại qua NSR.
Vào tháng 3, Nga đã thông qua một khái niệm chính sách đối ngoại mới, trong đó Tuyến đường Biển Bắc chiếm một vị trí nổi bật.
Theo tài liệu này, các ưu tiên chính trong chính sách đối ngoại của Nga bao gồm thúc đẩy tuyến giao thông huyết mạch Bắc Cực “như một hành lang giao thông quốc gia có tính cạnh tranh, tạo khả năng sử dụng quốc tế cho giao thông vận tải giữa châu Âu và châu Á”.
Nga hy vọng sẽ thiết lập “sự hợp tác cùng có lợi với các quốc gia ngoài Bắc Cực đang theo đuổi chính sách mang tính xây dựng đối với Nga và quan tâm đến các hoạt động quốc tế ở Bắc Cực, bao gồm phát triển cơ sở hạ tầng của Tuyến đường Biển Bắc”.
Tháng 7 năm ngoái, Nga đã thực hiện một học thuyết hải quân cập nhật, trong đó đặt tên NSR là một trong sáu hướng ưu tiên chiến lược để cải thiện vị thế của Nga “với tư cách là một cường quốc hải quân và củng cố vị thế của nước này trong số các cường quốc hải quân hàng đầu thế giới”.
Học thuyết liệt kê những nỗ lực của một số chính phủ không thân thiện nhằm làm suy yếu sự kiểm soát của Nga đối với Tuyến đường Biển Bắc, bao gồm cả việc thông qua sự hiện diện ngày càng tăng của cơ sở hạ tầng quân sự nước ngoài, là một trong mười mối đe dọa hàng đầu đối với Nga trong không gian hàng hải.
Năm ngoái, Phó Thủ tướng Nga Yuri Trutnev tuyên bố việc di chuyển quanh năm qua Tuyến đường biển phía Bắc dự kiến sẽ khả thi ngay sau năm 2024, với việc Moscow dự kiến sẽ tăng lưu lượng hàng hóa dọc theo tuyến đường lên 80 triệu tấn, theo thỏa thuận của nhà điều hành NSR - Rosatom và các đối tác.
Ông Trutnev kêu gọi tăng mạnh đầu tư của nhà nước vào cơ sở hạ tầng dọc theo tuyến đường để đẩy nhanh việc mở rộng huyết mạch để sử dụng trong thương mại toàn cầu.
Rosatom dự kiến vận chuyển hàng hóa qua Tuyến đường biển phía Bắc sẽ tăng lên 193 triệu tấn mỗi năm vào năm 2030 và hơn 270 triệu tấn mỗi năm vào năm 2035.
Nga có kế hoạch đóng thêm hàng chục tàu có khả năng hoạt động ở vùng biển lạnh giá ở vùng Bắc Cực. 41 chiếc đang được đóng và 88 chiếc vẫn cần được đóng mới nâng tổng số tàu 158 chiếc vào năm 2030.