Kế thừa lịch sử phát triển súng ngắn của SIG
Lịch sử phát triển của dòng súng ngắn SIG SAUER P226 (P226) phải kế đến khẩu P120 ra đời trong thời gian Thế chiến thứ II.
Sau đó nhiều năm, SIG tiếp tục phát triển một mẫu súng ngắn khác có tên gọi P220, đã được quân đội đưa vào sử dụng với tên gọi "Pistole 75" (P75).
SIG không sản xuất mẫu súng này độc lập, thay vào đó, họ hợp tác với công ty J.P. Sauer & Sohn của Đức. Sự liên kết này vẫn được kéo dài cho đến tận ngày nay, vì vậy các khẩu súng đời mới của SIG từ P220 đều được gọi là SIG SAUER.
Khẩu SIG P120 nổi tiếng từ Thế chiến thứ II
Năm 1984, khi quân đội Mỹ bắt đầu tìm kiếm một ứng viên mới thay cho khẩu M1911A1 "già cỗi", họ đã mở ra chương trình thử nghiệm các loại súng ngắn cỡ nhỏ XM9. Và P226, có thiết kế chính dựa trên khẩu P120 trước đó đã được nhà sản suất Thụy Sĩ mang đi tranh tài.
Chỉ có Beretta 92F và SIG P226 hoàn thành tốt các nội dung. Theo báo cáo của GAO, hợp đồng được ký kết cho khẩu M9 (một biến thể của 92F) vì có chi phí trọn gói tối ưu. Các khẩu P226 mặc dù chi phí thấp nhưng hộp tiếp đạn và phụ tùng lại có giá cao hơn.
Thiết kế của một khẩu súng ngắn tuyệt vời
P226 với đèn pin chiến thuật
SIG sản xuất P226 với nhiều phiên bản có các thông số về kích thước khác nhau. Khẩu P226 tiêu chuẩn có khối lượng 964 g, chiều dài 196 mm với nòng dài 112 mm; bề dày 38 mm và cao 140 mm.
P226 có thiết kế điển hình của một
khẩu súng ngắn hiện đại: gọn nhẹ, dễ cầm nắm mặc dù có cảm giác súng hơi
mất cân đối do tay cầm dài so với chiều dài tổng thể.
Khung của phần lớn các khẩu P226 được làm bằng nhôm khá nhẹ và chắc chắn. Nhựa cao phân tử chỉ được gia công vào bên ngoài.
Một điểm đặc biệt của P226 đời đầu khi so với những khẩu súng hiện đại khác là thanh trượt phía trên được làm hoàn toàn bằng thép cán và hàn với tấm lót nòng bên trong.
Từ năm 1996 trở đi, thanh trượt được tiện CNC, làm từ một mảnh thép không gỉ duy nhất. Các phiên bản hiện đại hơn được SIG tráng phủ Nitron và sử dụng loại thép đặc biệt để tăng độ chắc chắn, tương thích với các loại đạn có năng lượng lớn như .40 S&W hay .357 SIG.
Một số thành phần của SIG P226: (1) Cổng thoát vỏ đạn, móc khóa đạn; (2) Điểm ngắm; (3) Búa; (4) Cần gạt để tháo súng; (5) Khóa an toàn tự động; (6) Chặn thanh trượt; (7) Cò; (8) Nút tháo hộp tiếp đạn
Tay nắm của
súng được thiết kế 2 mảnh và cố định chắc chắc bằng các đinh ốc, nghiêng rất
ít so với phương thẳng đứng, mặt sau được làm uốn lượn theo tay cầm của người
bắn, giúp tạo cảm giác thoải mái.
Giống như các khẩu truyền thống của SIG, P226 cũng sử dụng cơ chế giật ngắn để nạp đạn bán tự động được phát triển lần đầu tiên bởi John Browning.
Khi khai hỏa, thanh trượt và nòng sẽ gắn chặt với nhau trong khoảng vài mm lúc thanh trượt ở vị trí giới hạn phía sau, nòng được hãm xuống bên dưới một chút.
Chính lúc này, khi viên đạn rời nòng và áp suất của khí thuốc trong buồng đạn đã giảm xuống mức an toàn, thanh trượt bắt đầu quay trở lại để tống vỏ đạn ra khỏi súng, đồng thời dùng móc kéo một viên đạn từ hộp tiếp đạn lên, gỡ nòng khỏi vị trí hãm, trở về vị trí ban đầu.
Cứ như vậy, chu kỳ mới sẽ tiếp tục khi người bắn nhấn cò.
Một khẩu SIG P226 S Sport Stock với nòng nặng và điểm ngắm LPA có thể điều chỉnh
Thay vì các khóa và hốc xoay được phay vào nòng như những khẩu súng ngắn kiểu Browning khác (Colt M1911A1, Browning Hi-Power và CZ 75), hai thành phần này của P226 được tách ra độc lập bằng một phần mở rộng của khóa nòng.
Hệ thống nạp đạn sửa đổi
trên là một trong những phát minh quan trọng của SIG, dựa trên mẫu Charles
Petter 1935A và P210, hoàn toàn không có nhược điểm so với hệ thống ban đầu của
Browning và được sao chép bởi nhiều nhà sản xuất vũ khí.
Tính năng độc đáo khác của P226 chính là không có khóa an toàn thủ công mà tự động toàn phần. Súng có một đòn bẩy phía trên nút tháo hộp tiếp đạn, thiết kế này xuất hiện lần đầu trên khẩu Sauer 38H thời Thế chiến thứ II, giúp cho búa kim hỏa có thể hạ xuống một cách an toàn.
Các hộp tiếp đạn thế hệ mới với sức chứa 18 viên được sản xuất tại Italy
Dòng súng
ngắn P226 sử dụng nhiều cỡ đạn khác nhau phù hợp với từng yêu cầu và quốc gia sử
dụng. Thường thấy nhất là khẩu P226 bắn đạn 9 x 19 mm Parabellum, ngoài ra
súng còn có các phiên bản tương thích loại đạn mạnh hơn như 40 S&W, .357 SIG, .22
Long Rifle.
P226 sử dụng các loại hộp tiếp đạn thẳng làm bằng polymer, gồm 2 cột với sức chứa 10, 12, 13 và 15 viên cho loại đạn .40 S&W, .357 SIG. Đạn 9 mm Parabellum sẽ được đựng trong các hộp tiếp đạn với sức chứa 10, 15, 17, 18 và 20 viên.
Các quân nhân thuộc lực lượng gỡ bom mìn của Hải quân Mỹ đang tập bắn SIG P226
SIG P226 được đánh giá là một trong những dòng súng ngắn tốt và phổ biến nhất trên thế giới bên cạnh USP, Glock, Beretta. Trọng lượng nhẹ, kích thước nhỏ gọn, độ chính xác cao cùng cơ chế nạp đạn cải tiến từ hệ thống cũ của Browning giúp P226 có độ tin cậy cao.
Tuy Bộ Quốc phòng Mỹ đã chọn khẩu M9 nhưng P226 vẫn được rất nhiều lực lượng chấp pháp lẫn quân đội Hoa Kỳ sử dụng,
đặc biệt là đặc nhiệm tinh nhuệ US Navy SEAL.