Cuối những năm 1950, Eugene Stoner thiết kế mẫu súng mẫu súng trường tấn công AR-10 để trang bị cho quân đội Mỹ. Nhưng vì nhiều lí do nó đã không thể cạnh tranh với khẩu M14.
Đến khi AR-15 được tạo ra, Stoner đã bán bản quyền chế tạo cho công ty Colt.
Đầu những năm 1990, ông gia nhập công ty vũ khí Knight's Armament và tiếp tục phát triển khẩu AR-10 với hệ thống trích khí trực tiếp từ AR-15 dẫn đến kết quả là khẩu súng bắn tỉa SR-25 đã ra đời.
SR-25 bản chuẩn có trọng lượng 4,8 kg chi chưa có ống ngắm và hộp tiếp đạn, chiều dài 1.118 mm và nòng dài 610 mm. Súng chia làm 2 phần trên và dưới được làm từ nhôm và gắn lại với nhau bằng các móc. SR-25 có thể hoán đổi 60% các bộ phận với AR-10 và AR-15 trừ khối khóa nòng trên và dưới, búa và thoi nạp đạn.
Báng của SR-25 được làm cố định và chắc chắn, các phiên bản cải tiến sau này báng súng được làm tương tự như AR-15 nên có thay đổi chiều dài cho phù hợp với xạ thủ.
Tay nắm chính được làm nhám và có hai chốt lồi để dễ dàng cầm nắm.
Chốt an toàn nằm ngay trên tay nắm chính với chỉ hai chế độ là an toàn và bán tự động.
Khe nhả đạn nằm ở bên phải với nắp đậy để tránh bụi rơi vào.
Cần lên đạn của SR-25 nằm ở phía sau, chỉ cần móc ngón tay vào và kéo mạnh để lên đạn.
Nòng của SR-25 được sản xuất bởi Remington Arms với 5 rãnh xoắn theo tỉ lệ 1: 11,25 giúp ổn định đường đạn.
Nòng súng có trọng lượng khá nặng để giảm độ giật, gắn tự do để tăng độ chính xác, ngoài ra còn được mạ chrome để chống ăn mòn.
Quanh nòng là lưới kim loại với nhiều khe thoát khí lớn để giảm nhiệt. Ốp lót tay trước được làm bằng sợi thủy tinh giúp bền hơn và giảm nhiệt hấp thụ.
Ngoài hệ thống ngắm bằng điểm ruồi dự phòng, SR-25 được trang bị các hệ thống ray Pincatinny ở cả 4 mặt giúp tương tác với nhiều loại ống ngắm và phụ kiện khác nhau.
Loại ống ngắm thường thấy của SR-25 là Leupold Mark 4 có khả năng phóng đại từ 3,5 đến 10 lần.
Một phụ kiện thường thấy khác của SR-25 là chân chống chữ V, trong một số nhiệm vụ, xạ thủ có thể trang bị cho SR-25 loa che lửa hay ống giảm thanh.
SR-25 có cơ chế nạp đạn bằng khí nén (trích khí trực tiếp) bên cạnh thoi nạp đạn xoay. Thoi nạp đạn có 7 móc, giúp khóa viên đạn vào vị trí cố định.
Buồng đạn của SR-25 tương thích loại đạn 7,62 x 51 mm NATO. Sơ tốc đầu đạn lên đến 738 m/s với tầm bắn hiệu quả 800 m, tầm bắn tối đa lên đến hơn 1.000 m, hộp tiếp đạn của súng bằng thép với sức chứa 10 hay 20 viên như trên M16.
Với ưu điểm là lượng đạn lớn và tốc bắn nhanh vo với những khẩu súng Bolt Action, Lực lượng tác chiến đặc biệt Hoa Kỳ (SOCOM) đã quan tâm đặc biệt tới SR-25.
Với vài sửa đổi, SOCOM đã thông qua biến thể SR-25 Mk 11 Mod 0 vào năm 2000.
Những thay đổi bao gồm: nòng dài 510 mm với trọng lượng 6,9 kg, có thể bắn hai biến thể đạn là M118 và M118LR 7,62 x 51mm NATO với một ống giảm thanh và ống ngắm có thể gắn hay tháo rời nhanh chóng.
Hệ thống ray tương tác phụ kiện được làm mới với chiều dài 288 mm, hệ thống ngắm điểm ruồi được làm lại cũng như thay thế báng súng bằng loại có thể thay đổi chiều dài của M16A2.
Độ chính xác của khầu súng ngày là 0,5 MOA, các viên đạn chỉ lệch nhau 13 mm trong khoảng cách 91 m.
Trong ảnh: SR-25 Mk11 Mod 0 với báng súng có thể tùy chỉnh độ dài.
Trong cuộc chiến tranh Iraq, Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ đã đặt hàng 180 khẩu SR-25 Mk11 Mod 1.
Đây là biến thể Mk 11 được trang bị khối khóa nòng trên của khẩu M110 với hệ thống ray tương tác URX cùng một loa che lửa ở đầu nòng.
Ngoài các lực lượng thuộc quân đội Hoa Kỳ như SOCOM, SR-25 và các biến thể hiện đang phục vụ trong lực lượng thực thi pháp luật cũng như quân đội của nhiều quốc gia trên thế giới như: Quân đội hoàng gia Thái Lan, GROM của Phần Lan cũng như đơn vị cảnh sát đặc biệt EKAM của Hy Lạp.
Trong ảnh: Binh sĩ quân đội Mỹ đang tập bắn SR-25 Mk11 Mod 0.