Không quân Nhân dân Việt Nam chỉ tham gia vào những ngày cuối cùng của cuộc chiến khốc liệt kéo dài 21 năm của dân tộc. Nhưng đó được xem là một trong những trận đánh độc đáo của lực lượng không quân, thay vì sử dụng những chiếc MiG truyền thống, chúng ta lại dùng chính “máy bay địch đánh địch”.
Sau khi chiến dịch Huế - Đà Nẵng kết thúc thắng lợi và thành phố Đà Nẵng hoàn toàn giải phóng vào chiều 29/3. Quân chủng Phòng không – Không quân nhanh chóng tổ chức đưa đoàn cán bộ (từ trước đó) vào tiếp quản, thu hồi các loại vũ khí của Quân đội Sài Gòn để lại.
Ngay trong những ngày đầu tháng 4, đoàn cán bộ không quân do Trung tá Phạm Ngọc Lan chỉ huy đã được trực thăng đưa vào sân bay Đà Nẵng làm 4 nhiệm vụ chính: hoàn thành cầu hàng không trung chuyển; quản lý khai thác sân bay đưa vào hoạt động; khai thác và quản lý nhân viên, phi công Quân đội Sài Gòn theo giải phóng; khai thác đưa vào sử dụng vũ khí chiến lợi phẩm.
Tại đây, quân ta đã thu giữ được một vài chiếc máy bay cường kích A-37 của Không quân Quân đội Sài Gòn và chọn được 3 phi công chính quyền cũ gồm: Trần Văn On; anh Sanh và anh Nghiệp (không rõ họ).
Trên cơ sở những vũ khí chiến lợi phẩm thu giữ được, ngày 19/4, Bộ tư lệnh Chiến dịch Hồ Chí Minh lệnh cho Bộ tư lệnh Quân chủng Phòng không – Không quân chuẩn bị cho không quân tham gia chiến dịch. Bộ tư lệnh quyết định “sử dụng máy bay mới thu được của địch để đánh địch” (loại A-37) và giao cho bên không quân gấp rút tổ chức thực hiện.
Một chiếc cường kích A-37 được sơn phù hiệu Không quân Nhân dân Việt Nam.
Làm chủ “chuồn chuồn” A-37
Máy bay cường kích hạng nhẹ A-37 Dragonfly (chuồn chuồn) là một trong hai loại chiến đấu cơ chủ lực của Không quân Quân đội Sài Gòn. Loại máy bay này do hãng Cessna (Mỹ) nghiên cứu phát triển từ những năm năm 1960 dựa trên máy bay huấn luyện phản lực T-37 Tweet.
A-37 dài 8,62m với chiều cao thấp 2,7m, sải cánh 10,93m, trọng lượng cất cánh tối đa chỉ 6,35 tấn. Máy bay thiết kế với buồng lái 2 người ngồi, nhưng một người có thể điều khiển và chiến đấu.
Máy bay trang bị 2 động cơ tuốc bin phản lực J85-GE-17A cho phép đạt tốc độ cận âm 816km/h, bán kính chiến đấu 740km, trần bay hơn 12.000m.
Về vũ khí, A-37 thiết kế với một pháo nòng xoay GAU-2B/A (6 nòng cỡ 7,62mm) chứa trong đầu máy bay và 8 giá treo trên cánh mang được 1,23 tấn vũ khí gồm: súng máy M134 7,62mm hoặc pháo tự động 20mm hoặc 4 cụm ống phóng rocket 70mm (7 đạn/cụm) hoặc 4 bom Mk.82 nặng 241kg (hoặc bom Napalm). Máy bay cũng có thể trang bị 2 tên lửa đối không tầm nhiệt AIM-9 để tự phòng vệ trên không.
Phi công Phạm Ngọc Lan (trên buồng lái) chuyển loại thành công A-37.
Việc phải chuyển loại sang máy bay A-37 không dễ dàng đối với phi công Không quân Nhân dân Việt Nam. Một phần vì phi công ta quen với việc lái máy bay chiến đấu Liên Xô, ngoài ra buồng lái A-37 đều dùng ngôn ngữ tiếng Anh nên phi công ta không quen.
Tuy nhiên, với sự phối hợp giữa các phi công Quân đội Sài Gòn theo cách mạng, chỉ trong một thời gian rất ngắn, phi công ta đã nhanh chóng làm chủ “chuồn chuồn” A-37.
11h ngày 21/4, Trung tá phi công Phạm Ngọc Lan (phi công Việt Nam bắn rơi máy bay chiến đấu phản lực Mỹ đầu tiên) đã điều khiển một chiếc A-37 cất cánh. Tuy nhiên, khi sắp rời mặt đất, cấp trên đã đình chỉ bay thử do chưa thông báo kịp cho lực lượng phòng không ta ở 2 đầu sân bay Đà Nẵng về chuyến bay này.
Ngày 22/4, máy bay vận tải An-24 chở một số phi công chọn từ Trung đoàn tiêm kích 923 (gồm Thượng úy Nguyễn Văn Lục, Trung úy Từ Đễ, Hán Văn Quảng và Hoàng Mai Vượng) hạ cánh xuống sân bay Đà Nẵng. Tất cả các phi công cùng các đồng chí Phạm Ngọc Lan, phi công Trần Văn On, Sanh, Nghiệp khẩn trương học chuyển loại từ ngày 23-26/4.
Tiếp đó, ngày 25/4, lực lượng ta đưa phi công Nguyễn Thành Trung từ trong phía Nam ra sân bay Đà Nẵng. Phi công Nguyễn Thành Trung trước đó đã lái tiêm kích F-5E của địch oanh tạc Dinh Độc Lập ngày 8/4 và bay ra hạ cánh an toàn ở vùng giải phóng Phước Long.
Cánh quân thứ 6 “tiến về Sài Gòn”
Sau khi tỉnh Bình Định được giải phóng, bộ đội không quân khẩn trương vào tiếp quản sân bay Phù Cát. Tại đây, ta đã thu giữ được toàn bộ vũ khí khí tài địch bỏ lại và một số phi công A-37, nhân kỹ thuật theo cách mạng. Với sự hỗ trợ từ số này, ta đã có thêm được 5 máy bay A-37 còn tốt.
Để chuẩn bị cho cuộc tập kích vào Sài Gòn, ngày 27/4, máy bay An-24 đưa toàn bộ phi công lái chuyển loại A-37 từ Đà Nẵng vào Phù Cát. Chiếc A-37 ở Đà Nẵng được phi công Trung đoàn 923 Hoàng Mai Vượng và phi công Trần Văn On điều khiển vào.
Tại Phù Cát, toàn bộ 5 A-37 được các phi công Sanh và On bay thử, nhưng không may một chiếc bị hỏng động cơ. Như vậy, tại Phù Cát ta đã tập hợp được phi đội 5 A-37 sẵn sàng chiến đấu.
10h04 phút ngày 28/4, đội hình 5 chiếc A-37 lại cất cánh từ Phù Cát bay vào hạ cánh tại sân bay Phan Rang. Lúc này, Bộ chỉ huy Chiến dịch Hồ Chí Minh đã chỉ thị cho không quân chuẩn bị cuộc tập kích đường không vào sân bay Tân Sơn Nhất, thời gian từ 16-18h tối ngày 28/4.
Lúc 16h15 phút ngày 28/4, phi đội 5 A-37 do phi công Nguyễn Thành Trung bay số 1 (dẫn đường) đồng loạt cất cánh hướng về phía Nam. Vượt qua sông Sài Gòn khoảng 30 giây, các phi công đã nhìn rõ mục tiêu sân bay Tân Sơn Nhất.
Lần lượt, các phi công bổ nhào cắt bom. Chỉ trong ít giây, khói lửa đã trùm kín khu vực máy bay địch đang đổ, tiếng bom nổ rung chuyển các thành phố. Cuộc tập kích diễn ra một cách bất ngờ, quân địch hoàn toàn bất ngờ không kịp phản ứng.
Toàn bộ phi đội đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, chiếc A-37 cuối cùng hạ cánh an toàn xuống sân bay Phan Rang lúc 18h05. Kết quả, ta đã phá hủy hoàn toàn 24 máy bay địch cùng hàng trăm tên.
Trận đánh ngày 28/4 được ví như “mũi tiến công thứ 6” trong chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử cùng với 5 cánh quân trên bộ đã tiến vào giải phóng thành phố Sài Gòn – Gia Định. Trận đánh đã góp phần thúc đẩy nhanh sự tan rã của Quân đội Sài Gòn, buộc Mỹ khẩn trương thực hiện kế hoạch di tản.