Xe tăng nặng: 55 tấn. Được thiết kế với chiều dài: 10,8 m; Rộng: 3,60 m; Cao: 2,4 m.
K2 Báo đen đạt tốc độ: 70 km/h trên đường nhựa và 50 km/h trên đường gồ ghề.
Đây là một trong số các loại xe tăng chiến đấu chủ lực hiện đại nhất trên thế giới.
Xe tăng K2 được phát triển trong nước dựa trên kinh nghiệm phát triển xe tăng K1 và K1A1 để phù hợp với chiến trường số hóa trong thế kỷ 21.
Những điều cần chú ý quan trọng nhất trong loại xe tăng này là các hệ thống quản lý chiến đấu, theo dõi tự động, nạp đạn tự động, hệ thống tự vệ tích cực (bảo vệ mềm soft-kill và bảo vệ cứng hard-kill), hệ thống dẫn đường, bộ phận treo bán chủ động, hệ thống tăng áp chống vũ khí NBC...
Xe tăng có tổ lái: 3 người (chỉ huy, pháo thủ và lái xe). Có tầm hoạt động: 450 km.
K2 được trang bị động cơ 1.500 mã lực của hãng Doosan Infracore (tương đương động cơ MTU-890 của Đức). K2 còn được lắp thêm một động cơ tuốc bin khí 100 mã lực (75 kW) phía bên trái xe với vai trò là động cơ phụ.
Điều này giúp K2 tiết kiệm nhiên liệu, giảm độ ồn và mức tản nhiệt. K2 có thể chạy với vận tốc 70 km/h trên đường bằng và 50 km/h trên địa hình xấu. Xe có thể gia tốc từ 0 đến 32 km/h trong vòng 7 giây, có khả năng vượt chướng ngại vật cao 1,3 m và leo dốc 60%.
Nhờ vậy, các nhà thiết kế có thể lắp đặt thêm một động cơ tuốc bin khí 100 mã lực (75 kW) phía bên trái xe với vai trò là động cơ phụ. Điều này giúp K2 tiết kiệm nhiên liệu, giảm độ ồn và mức tản nhiệt.
Cơ cấu treo đặc biệt của K2, được gọi là "Cơ cấu treo tay trong" (ISU), cho phép xe tăng thực hiện 3 tư thế khác nhau ngồi, đứng, quỳ và bắn góc tà âm (chéo xuống).
Xe tăng K2 có thể vượt qua sông sâu tới 4,1 m nhờ một ống thông hơi đặc biệt.
Hỏa lực trên xe tăng K2 gồm một pháo nòng trơn sản xuất trong nước 120 mm/L55 vớí tốc độ bắn lên tới 15 phát/phút, 1 súng máy hạng nặng 12,7 mm K6, 1 súng máy đồng trục 7,62 mm.
Pháo có khả năng tự động nạp đạn, do đó kíp xe chỉ cần 3 người so với kíp xe thông thường 4 người.
Một trong những loại đạn đặc biệt được K2 sử dụng là KSTAM (Korean Smart Top-Attack Munition) với tầm bắn tối thiểu 2 km và tối đa lên đến 8 km.
Đạn KSTAM có hệ thống dẫn đường và tránh vật cản riêng với bộ cảm ứng bức xạ, radar băng tần mm và đầu nổ EFP.
Sau khi bắn ra, đạn KSTAM sẽ được ổn định với 4 cánh trên đuôi và bay thẳng đến khu vực mục tiêu đã tính toán.
Khi bay gần đến mục tiêu, một chiếc dù được bung ra giúp viên đạn chuyển động chậm lại và rơi xuống. Trong quá trình đó, radar sẽ phát tín hiệu và các cảm ứng có đủ thời gian để tìm kiếm mục tiêu phía dưới.
Khi xác định được mục tiêu (cố định hoặc di động), viên đạn sẽ bắt đầu nổ vào trúng "đầu" mục tiêu.