Việt Nam mạnh tay chi hơn 300 triệu USD nhập “hạt vàng” từ Mỹ: Vì sao nước ta “mê” đến vậy?

Ngọc Minh |

Mỗi năm, Việt Nam chi hàng trăm triệu USD để nhập khẩu hàng triệu tấn đậu nguyên hạt và khô đậu nành từ Mỹ, Brazil, Canada.

9 tháng đầu năm 2025, Việt Nam chi hơn 300 triệu USD để nhập khẩu hơn 667 nghìn tấn đậu nành từ Mỹ, tăng 30% về lượng so với cùng kỳ. Cùng với Brazil và Canada, Mỹ hiện nằm trong nhóm ba quốc gia cung cấp đậu nành lớn nhất cho Việt Nam.

Tính chung, cả nước nhập khoảng 2,2 triệu tấn đậu nành nguyên hạt và gần 6 triệu tấn khô đậu nành mỗi năm chủ yếu phục vụ chế biến thực phẩm và sản xuất thức ăn chăn nuôi.

Đằng sau con số hàng trăm triệu USD ấy là bức tranh phản ánh rõ nét sự chuyển dịch trong nông nghiệp Việt Nam: từ sản xuất tự cung sang nhập khẩu nguyên liệu theo cơ chế thị trường. Nhưng liệu đây là “sự lệ thuộc”, hay là một bước đi tất yếu trong chiến lược phát triển bền vững?

Việt Nam mạnh tay chi hơn 300 triệu USD nhập “hạt vàng” từ Mỹ: Vì sao nước ta “mê” đến vậy?- Ảnh 1.

Ảnh minh họa.

Vì sao Việt Nam “mê” đậu nành nhập khẩu?

Đậu nành và ngô là hai nguyên liệu chính trong thức ăn chăn nuôi (TACN) ngành có quy mô hàng chục tỷ USD mỗi năm. Tuy nhiên, nguồn cung trong nước chỉ đáp ứng chưa đến 30% nhu cầu, phần còn lại phải nhập khẩu.

Trong bối cảnh toàn cầu hóa, đây là sự lựa chọn đúng nếu nhìn từ góc độ hiệu quả kinh tế. Việt Nam đang hướng tới nền nông nghiệp thị trường, tập trung vào các lĩnh vực có lợi thế như lúa gạo, trái cây, thủy sản – những ngành có thể đem lại kim ngạch hàng trăm tỷ USD và tạo sinh kế cho hàng triệu nông dân.

Tuy vậy, điều đó không đồng nghĩa với việc bỏ quên cây đậu tương. Bởi ngoài giá trị dinh dưỡng và kinh tế, đậu nành còn đóng vai trò quan trọng trong hệ sinh thái nông nghiệp tuần hoàn giúp cải tạo đất, cố định đạm tự nhiên, giảm nhu cầu sử dụng phân bón hóa học. Mỗi ha trồng đậu tương có thể để lại cho đất tới 20 kg nitơ nguyên chất, cải thiện độ phì và cấu trúc đất – điều mà ít cây trồng nào làm được.

Theo các chuyên gia, Việt Nam vẫn có tiềm năng phục hồi cây đậu tương nếu đi đúng hướng. PGS.TS. Trần Đình Long chia sẻ trên Vneconomy, cần phát triển giống đậu tương ăn tươi, đậu tương rau, đậu tương hữu cơ phục vụ nhu cầu trong nước và xuất khẩu; đồng thời ứng dụng cơ giới hóa, kỹ thuật làm đất tối thiểu, giảm chi phí sản xuất.

Ngoài ra, các chuyên gia đề xuất muốn phát triển đậu tương bền vững cần: Quy hoạch vùng trồng hợp lý, đầu tư hệ thống tưới tiêu nhỏ cho đậu tương vụ Đông; Đẩy mạnh nghiên cứu và chọn tạo giống mới có năng suất cao, chống chịu biến đổi khí hậu; Tăng cường liên kết “4 nhà” (Nhà nước – Nhà khoa học – Doanh nghiệp – Nông dân), xây dựng chuỗi giá trị khép kín: từ sản xuất, chế biến sữa đậu nành, bột dinh dưỡng, Isoflavone… đến tận dụng phụ phẩm làm thức ăn chăn nuôi hay giá thể trồng nấm.

Đậu nành nhập khẩu vẫn là nguồn nguyên liệu thiết yếu, đảm bảo cho ngành thực phẩm và chăn nuôi. Nhưng để hướng tới nền nông nghiệp bền vững, Việt Nam cần từng bước xây dựng vùng nguyên liệu trong nước phục vụ chế biến sâu, giảm dần phụ thuộc vào nguồn nhập.

Đường dây nóng: 0943 113 999

Soha
Báo lỗi cho Soha

*Vui lòng nhập đủ thông tin email hoặc số điện thoại