Hũ tro cốt bằng nhựa của cô được tôi cất cẩn thận trong chiếc túi vải lanh, đóng gói vào hành lý, sẵn sàng cho chuyến bay vượt Thái Bình Dương đến với Manila.
Từ đó, tôi sẽ bắt xe đến một làng quê xa xôi và tôi sẽ giao tất cả những gì còn sót lại của người phụ nữ đã “làm nô lệ” cho gia đình tôi suốt 56 năm cho người thân của cô ấy.
Cô ấy tên Eudcia Tomas Pulido.
Chúng tôi vẫn hay gọi cô là Lola. Cô cao khoảng 1m50, có làn da nâu đỏ, đôi mắt màu hạnh nhân mà tôi sẽ chẳng thể nào quên được.
Năm cô Lola được 18 tuổi, ông tôi đã trao cô cho mẹ tôi như một món quà, và khi gia đình tôi chuyển đến Mỹ sinh sống, chúng tôi mang cô ấy cùng đi.
Một ngày của Lola bắt đầu trước khi mọi người thức giấc và kết thúc khi chúng tôi đã ngon giấc. Cô ấy phải chuẩn bị đủ 3 bữa ăn một ngày, đảm bảo nhà cửa sạch sẽ, đợi bố mẹ tôi về và chăm sóc 4 anh chị em chúng tôi.
Bố mẹ tôi chưa bao giờ trả công cho cô ấy và thậm chí họ còn mắng chửi cô ấy liên tục. Dù cô ấy không bị còng chân lại nhưng thực ra thì cô ấy chẳng khác gì một người nô lệ trong nhà tôi cả.
Rất nhiều đêm, khi vào nhà tắm, tôi thấy cô ấy ngủ thiếp đi ở một góc, tay vẫn còn ôm mớ quần áo giặt ủi, ngón tay cô thậm chí còn như đang gấp quần áo vậy.
Đối với những người hàng xóm xung quanh, chúng tôi là một gia đình di dân kiểu mẫu.
Bố tôi có bằng luật sư, mẹ thì chuẩn bị trở thành bác sĩ, anh chị em chúng tôi đều đạt điểm số tốt, biết nói “làm ơn” và “cảm ơn”. Chúng tôi không bao giờ nói về Lola.
Bí mật của chúng tôi trở thành điều cốt lõi của việc chúng tôi là ai, ít nhất là để trở thành những đứa trẻ Mỹ như chúng tôi vẫn mong muốn.
Năm 1999, sau khi mẹ tôi mất vì bệnh bạch cầu, Lola đến sống với tôi tại một thị trấn nhỏ ở Seattle. Tôi lập gia đình, có sự nghiệp, một ngôi nhà ở ngoại ô - một giấc mơ Mỹ mà nhiều người ao ước.
Chân dung Lola (Ảnh: theatlantic)
Đến Manila, tôi mở hành lý của mình ra xem để đảm bảo hũ tro cốt của Lola vẫn ở đó. Ngoài kia, tôi ngửi thấy mùi quen thuộc: một sự pha trộn của khí thải và chất thải, mùi biển, trái cây và cả mồ hôi.
Sáng hôm sau, tôi được một người tài xế tên Doods, tuổi cũng trung niên chở tôi đến quê nhà của Lola.
Cảnh vật xung quanh thật sự khiến tôi choáng váng. Xe cộ đông khủng khiếp, người thì len lỏi giữa dòng xe cộ như nêm ấy.
Những người bán hàng rong cứ thế chân trần chạy dọc theo những chiếc ô tô để bán những bao thuốc lá, ít đậu phộng luộc, mấy đứa trẻ ăn xin cứ thế ép sát mặt chúng vào cửa sổ xe.
Doods và tôi tiến thẳng đến nơi mà câu chuyện về Lola được bắt đầu, phía bắc của đồng bằng trung tâm: tỉnh Tarlac - vùng chuyên trồng lúa gạo, quê nhà của một trung úy quân đội - ông tôi Tomas Asuncion.
Những câu chuyện gia đình đã tạo nên hình ảnh một ông Trung tá Tom đáng sợ với tâm trạng kì lạ, bí ẩn, có nhiều đất đai nhưng ít tiền, và giữ những cô nhân tình trong các ngôi nhà nằm trên lãnh thổ ông.
Vợ ông chết sau khi hạ sinh ra đứa con duy nhất của họ - mẹ tôi.
Trung úy Tom có tới 3 gia đình utusan - tức người hầu trong tiếng Tagalog - sống dựa vào tài sản của ông.
Vào mùa xuân năm 1943, khi hòn đảo đang bị Nhật Bản chiếm đóng, ông đã mang về nhà một cô gái xuất thân một gia đình làm nông.
Ông tôi rất khôn ngoan. Ông biết rằng người con gái ấy không tiền bạc, không được đến trường và rất dễ uốn nắn. Bố mẹ cô muốn cô phải kết hôn với một gã chăn nuôi lợn gấp đôi tuổi cô.
Cô rất tuyệt vọng nhưng không biết phải làm gì khác, cũng chẳng có nơi nào để đi. Lợi dụng chuyện đó, ông tôi đã tiếp cận cô với một lời đề nghị: cô sẽ có cơm ăn, chỗ ở nếu cô hứa sẽ chăm sóc đứa con gái 12 tuổi của ông khi đó.
Dĩ nhiên là Lola đồng ý, cô biết rằng đó là lựa chọn tốt cho cuộc sống hiện tại của cô, hơn là lấy gã chăn lợn kia.
“Cô gái này là món quà bố tặng con”, ông đã nói với mẹ tôi như thế. Dù biết rằng không còn lựa chọn nào khác nhưng mẹ tôi vẫn tỏ thái độ: “Nhưng con không muốn cô ta”.
Lola (ảnh trái) - người đã được Trung úy Tom (ảnh phải) tặng cho cô con gái 12 tuổi như một món quà (Ảnh: theatlantic)
Và rồi ông tôi đã lên đường chiến đấu chống lại Nhật Bản, để mẹ tôi ở lại với Lola. Cô ấy chăm lo cho mẹ từng bữa ăn, giấc ngủ, từng chiếc váy, để mẹ tôi lúc nào cũng luôn xinh đẹp.
Mỗi khi ra đường, Lola luôn sát bên cầm dù che cho mẹ tôi.
Khi màn đêm buông xuống, Lola vẫn còn hàng tá việc khác phải làm, nào là cho chó ăn, quét nhà, gấp áo quần mà cô đã giặt bằng tay bên bờ sông Camiling. Rồi cô lại ngồi cạnh giường, trông chừng mẹ tôi ngủ.
Cuộc sống của Lola cứ thế trôi qua cùng mẹ tôi.
Một ngày nọ, ông tôi bất ngờ trở về nhà, bắt gặp mẹ tôi đang đứng nói chuyện với một chàng trai mà ông đã cấm không cho bà tiếp xúc. Trong cơn tức giận, ông bắt bà đứng sát bàn chờ hình phạt từ ông.
Mẹ tôi chỉ biết nhìn Lola, khi đó đang đứng nép vào góc nhà. Mãi một lúc sau, bằng giọng run run sợ hãi, mẹ bảo với ông Lola sẽ là người chịu phạt thay mình. Mặc Lola nài nỉ, van xin nhưng mẹ tôi vẫn không thay đổi.
Lola đành phải tiến đến chiếc bàn ăn, tay run run nắm chặt cạnh bàn. Ông tôi bắt đầu rút thắt lưng và quất tới tấp cô ấy 12 roi. Lola tuyệt nhiên không dám thút thít hay hó hé nửa lời.
Đến cuối đời, mẹ tôi đã kể lại câu chuyện này và thậm chí còn hỏi tôi bằng một giọng vui vẻ: “Con có tin là mẹ đã làm thề không?”.
Mang chuyện này đến hỏi Lola, cô bảo rằng muốn nghe chi tiết từng lời kể của mẹ. Cô chăm chú lắng nghe, mắt nhắm lại và sau đó nhìn tôi buồn bã nói: “Phải. Nó là như thế”.
7 năm sau, năm 1950, bố mẹ tôi kết hôn và chuyển đến Manila sinh sống. Dĩ nhiên, Lola cũng đi cùng. Năm 1951, anh trai tôi Arthur ra đời, sau đó là đến tôi và 3 anh chị em khác liên tiếp nhau.
Bố mẹ tôi buộc Lola phải cống hiến hết mình, chăm sóc bọn tôi thật chu toàn, như cô đã chăm sóc bố mẹ tôi.
Vậy là cô chăm lo cho chúng tôi khi bố mẹ tôi đi học và đạt được thành tích tốt, bằng cấp cao, nhưng lại chẳng tìm được việc.
Rồi một ngày nọ, bố mang về một tin chấn động: bố được nhận vào Bộ Ngoại giao với vai trò nhà phân tích thương mại, lương ít nhưng sẽ làm việc tại Mỹ - nơi mà cả bố và mẹ tôi đều ao ước, nơi họ có thể biến mọi ước mơ thành hiện thực.
Lola lúc 27 tuổi, chụp ảnh cùng Arthur - anh trai của tác giả bài viết (Ảnh: theatlantic)
Bố được phép mang gia đình theo và một người giúp việc. Bố mẹ biết cả hai đều phải đi làm và họ cần đến Lola để chăm sóc con cái, nhà cửa.
Khi nhận được thông báo của mẹ tôi, Lola lập tức không đồng ý với lý do mà nhiều năm sau, Lola mới dám nói với tôi rằng: “Vì nó quá xa. Bố mẹ con sẽ không để cô về nhà”.
Cuối cùng, điều thuyết phục Lola theo gia đình tôi là lời hứa của bố rằng mọi thứ sẽ khác khi ở Mỹ. Ông nói với cô rằng khi họ vững vàng về kinh tế, họ sẽ trả cô thù lao và Lola có thể gửi tiền về cho bố mẹ, họ hàng của cô.
Bố mẹ Lola trước giờ vẫn sống trong một ngôi nhà dơ bẩn, ẩm thấp và lời hứa ấy đã khiến Lola vẽ nên bức tranh đẹp có thể giúp bố mẹ xây một ngôi nhà bê tông khang trang, có thể thay đổi cuộc sống của họ tốt đẹp hơn.
Chúng tôi hạ cánh ở Los Angeles vào ngày 12/5/1964 với rất nhiều đồ đạc được gói gọn trong những thùng các-tông buộc dây thừng chắc chắn.
Tính tới thời điểm đó, Lola đã theo mẹ tôi được 21 năm. Bằng nhiều cách, đối với tôi, cô ấy còn hơn cả bố mẹ tôi nữa. Đó là gương mặt đầu tiên tôi nhìn thấy vào buổi sáng và cuối cùng trước khi đi ngủ.
Khi còn là một đứa trẻ, tôi đã có thể gọi tên Lola ngay cả trước khi biết gọi bố, mẹ. Khi chập chững tập đi, tôi sẽ không ngủ nếu không có Lola ôm ấp hay ít nhất là ở cạnh tôi.
Khi chuyển đến Mỹ, tôi chỉ là một cậu bé 4 tuổi, quá nhỏ để thắc mắc về vai trò của Lola trong gia đình tôi. Nhưng khi lớn lên ở nơi này, chúng tôi nhìn thấy thế giới hoàn toàn khác biệt. Bước nhảy vọt băng qua đại dương đã mang đến một sự nhảy vọt trong nhận thức chúng tôi.
Lola không bao giờ được nhận tiền lương. Cô nhiều lần hỏi về khoản tiền ấy trong suốt 2 năm trời đầu tiên ở Mỹ.
Mẹ cô ốm mà gia đình cô lại không có tiền mua loại thuốc đặc trị. Đắn đo mãi cô mới dám hỏi bố mẹ tôi. Nếu mẹ tôi chỉ biết thở dài thì bố tôi đã gầm lên: “Cô còn dám hỏi sao? Cô không thấy chúng tôi đang rất khó khăn hả? Hỏi mà không thấy xấu hổ sao?”.
Bố mẹ tôi đã mượn tiền để chuyển đến Mỹ và sau đó là vay mượn nhiều hơn để sinh sống qua ngày ở nơi đây.
Bố tôi được chuyển từ Tổng lãnh sự quán ở Los Angeles tới cơ quan lãnh sự Philippine ở Seattle với mức lương 5.600 USD một năm.
Ngoài ra, ông còn phải làm thêm 2 việc khác ngoài giờ nữa. Mẹ tôi thì sau một thời gian xin việc đã được nhận vào vài phòng thí nghiệm y khoa với vai trò kỹ thuật viên.
Chúng tôi gần như không gặp mặt bố mẹ mà nếu có thì họ cũng đã kiệt sức và cáu gắt.
Lúc nào mẹ tôi về nhà cũng kiếm cớ để mắng chửi Lola, nào là nhà không sạch, nào là không để thư đúng chỗ. “Tôi nói bao nhiều lần là thư phải để ở đây khi tôi về nhà?”.
Bằng giọng cay độc nhất có thể, mẹ bảo: “Nó khó lắm hả? Một thằng ngu cũng nhớ được nữa đấy”. Rồi đến khi bố tôi về là đến lượt ông mắng chửi Lola. Khi bố tôi cất giọng, tất cả mọi người trong nhà đều phải khúm núm, im re.
Đôi khi, cả bố mẹ tôi cùng nhau “đồng thanh” chửi rủa Lola cho đến khi cô ấy chịu không nổi bật khóc nức nở. Mọi thứ cứ như thế như thể đó là mục đích của họ.
Điều đó khiến tôi hoang mang lắm. Bố mẹ rất tốt, rất yêu thương bọn tôi.
Nhưng họ chỉ yêu thương chúng tôi trong khoảnh khắc nào đó thôi, còn lại vẫn là Lola. mãi cho đến khi tôi 11 hay 12 tuổi gì đó, tôi mới lờ mờ nhận ra vị trí của Lola trong gia đình.
Anh trai tôi - Arthur - thì đã phát hiện ra từ lâu rồi. Anh là người đưa từ “nô lệ” vào đầu tôi khi nói về vị trí của Lola. Trước đó, anh chỉ nói với tôi rằng cô ấy là một thành viên không may mắn trong gia đình tôi mà thôi.
Tôi ghét những lúc bố mẹ mắng chửi Lola nhưng tôi không nghĩ rằng họ và những việc làm của họ là vô đạo đức.
Tác giả bài viết - cậu bé ngoài cùng bên trái của bức ảnh trắng đen và cả gia đình (ảnh phải) sau 5 năm đặt chân đến Mỹ (Ảnh: theatlantic)
“Em có biết ai bị đối xử như Lola không? Ai phải sống cuộc sống như Lola?”, Arthur hỏi tôi.
Rồi không đợi tôi trả lời, anh tổng kết hiện thực của Lola: không được trả công, chùi dọn nhà vệ sinh mỗi ngày, bị mắng chửi nếu ngồi quá lâu hay ngủ quá sớm, bị chửi rủa nếu dám trả lời, mặc những bộ quần áo may sẵn rẻ tiền, ăn đồ thừa, đồ bỏ đi trong bếp, hiếm khi rời khỏi nhà, không có bạn bè hay sở thích nào khác, không có khu vực riêng tư.
Quả thật là vậy, cô chẳng có chỗ nghỉ ngơi riêng mà phải ngủ trên một chiếc ghế dài hay nhà kho, một góc nào đó trong phòng em tôi, thậm chí là nằm giữa đống quần áo.
Chúng tôi không thể xác định chính xác người nào tương tự như Lola ngoại trừ những nhân vật nô lệ trên TV, trong phim ảnh, như Pompey trong phim The Man Who Shot Liberty Valance.
Trong tâm trí của tôi, tôi cho rằng: Lola là Pompey, Pompey là Lola.
Một tối nọ, bố tôi phát hiện ra em gái 9 tuổi của tôi khi đó - Ling - bỏ bữa tối. Ông lại mắng nhiếc Lola lười biếng. “Tôi đã cố gắng cho Ling ăn”, Lola cố gắng giải thích khi bố tôi nổi cơn thịnh nộ, nhìn chằm chằm cô ấy.
Lời nói yếu ớt của Lola đã khiến bố tôi lên cơn điên tiết, ông đấm ngay vào vai Lola. Khi cô ấy chạy khỏi phòng rồi tôi vẫn có thể nghe thấy tiếng khóc của cô ấy, rất đáng thương.
“Ling không đói mà bố”, tôi lên tiếng giải thích. Bố mẹ lập tức quay lại nhìn tôi, hình như họ hơi bất ngờ. Thông thường, tôi sẽ cảm giác được gương mặt mình giật từng cơn trước khi khóc nhưng lần này thì tôi không khóc.
Trong mắt mẹ tôi là một điều gì đó mà tôi chưa bao giờ thấy trước đây, hình như là một sự ghen ghét. “Con đang cố gắng bảo vệ Lola đó hả?”, bố tôi gằn từng chữ. “Ling nói nó không đói”, tôi thì thầm trả lời lại với bố.
Khi đó tôi 13 tuổi. Đó là nỗ lực đầu tiên của tôi dành cho người phụ nữ đã chăm sóc tôi suốt bao nhiêu năm vừa qua.
Người phụ nữ đã dùng ngôn ngữ Tagalog để giúp tôi đi vào giấc ngủ, nuôi tôi lớn lên, lo cho tôi từng chiếc quần chiếc áo, cùng tôi đến trường, đón tôi về lúc tan học. Tôi ốm nặng chẳng thể ăn, cô sẽ nhai nhuyễn, mớm thức ăn cho tôi.
Khi tôi phải bó bột chân, cô sẽ lau cho tôi, mang thuốc đến dù có là nửa đêm và giúp tôi hồi phục suốt nhiều tháng liền. Tôi cáu kỉnh, cô chẳng phàn nàn hay mất kiên nhẫn, chẳng bao giờ.
Giờ đây tiếng khóc của cô ấy đã khiến tôi phát điên lên.
Ở Philippine, bố mẹ tôi cảm thấy không cần phải giấu việc đối xử tệ bạc với Lola. Ở Mỹ, họ đối xử với cô ấy tệ hơn nhưng phải rất nỗ lực để che giấu điều đó.
Khi có khách đến nhà, bố mẹ tôi sẽ lờ cô ấy đi hay nếu được hỏi, họ sẽ nói dối và nhanh chóng đổi đề tài.
5 năm sống ở North Seattle, chúng tôi được gia đình Missler giàu có gồm 8 thành viên giới thiệu những thứ như mù tạt, câu cá hồi, cắt cỏ, xem bóng đá trên TV, la hét suốt trận đấu.
Lola sẽ phục vụ thức ăn, nước uống suốt trận đấu, bố mẹ tôi sẽ mỉm cười, cảm ơn trước khi cô ấy biến mất thật nhanh. “Người phụ nữ bé nhỏ trong nhà bếp là ai đấy”, ông bố gia đình nọ tò mò.
“Một người họ hàng ở quê ấy mà”, bố tôi xấu hổ trả lời.
Nhưng bạn thân tôi - Billy Missler - lại không tin vào điều đó. Cậu ta ở nhà tôi khá nhiều, có khi cả cuối tuần, đủ để cậu ta lờ mờ biết được bí mật gia đình tôi.
Một lần Billy nghe thấy mẹ tôi la hét trong nhà bếp và khi tìm thấy mẹ tôi, cậu ta đã thấy mẹ tôi đỏ mặt nhìn chằm chằm vào Lola đáng thương đang đứng co ro một góc nhà.
Vài giây sau tôi mới có mặt ở “hiện trường”. Gương mặt Billy khi đó trông bối rối và lúng túng, như muốn dò hỏi tôi chuyện gì đang xảy ra. Tôi vẫy tay ra hiệu Billy hãy quên nó đi.
Tôi nghĩ Billy cũng cảm thấy xót xa cho Lola. Cậu ta vẫn hay khen cô ấy nấu ăn ngon, khiến cô cười vui vẻ - nụ cười mà chúng tôi chưa bao giờ thấy.
Những lần Billy ngủ lại, Lola đã nấu món Philippine mà Billy thích nhất: thịt bò tapa với cơm trắng. Nấu ăn là cách diễn đạt duy nhất của Lola. Chỉ qua cách cô ấy phục vụ, cho chúng tôi ăn, tôi cũng hiểu được rằng cô ấy rất yêu chúng tôi.
Một lần nọ, tôi bảo với Billy rằng Lola là người dì xa của chúng tôi, Billy bảo cậu ấy vẫn nghĩ Lola là bà tôi ngay từ lần đầu gặp gỡ.
“Vì sao cô ấy lúc nào cũng làm việc?”, Billy thắc mắc, “Vì cô ấy thích thế”, tôi trả lời. “Vì sao bố mẹ cậu la mắng cô ấy”, “À, vì tai cô ấy không thính cho lắm”, tôi xấu hổ trả lời.
Thừa nhận sự thật nghĩa là sẽ phơi bày tất cả chúng tôi. Chúng tôi đã trải qua thập kỷ đầu tiên trên đất nước này, tìm hiểu tập quán của người dân vùng đất mới và cố gắng để hòa hợp.
Sở hữu một người nô lệ rõ ràng là không hợp pháp. Có một người nô lệ khiến chúng tôi nghi ngờ về đạo đức của chính mình.
Cho dù chúng tôi xứng đáng được chấp nhận hay không, tôi vẫn cảm thấy xấu hổ về tất cả, kể cả sự đồng lõa của tôi.
Tôi có nên tiếp tục ăn thức ăn cô ấy nấu không, có nên mặc quần áo cô ấy giặt và ủi phẳng phiu không? Nhưng mất cô ấy là một mất mát lớn của tôi.
Còn một lý do khác mà chúng tôi phải giữ bí mật về Lola: Visa du lịch của cô ấy đã hết hạn vào năm 1969, 5 năm sau khi chúng tôi đặt chân đến Mỹ.
Cô ấy có một hộ chiếu đặc biệt liên quan đến công việc của bố tôi. Sau hàng loạt vụ rắc rối với cấp trên, bố tôi đã rời khỏi Lãnh sự quán và tuyên bố sẽ ở lại Mỹ.
Ông đã sắp xếp giấy tờ cho gia đình nhưng với Lola thì không thể, ông lẽ ra phải đưa cô ấy về lại Philippine.
Lola vào năm 1976, khi cô được 51 tuổi (Ảnh: theatlantic)
Mẹ Lola mất vào năm 1973, bố cô ấy cũng đi theo bà 6 năm sau đó. Cả hai lần, trong cơn tuyệt vọng, cô bạo gan xin bố mẹ tôi cho về nhà.
Nhưng cả hai lần, bố mẹ tôi chỉ biết nói: “Rất tiếc…”. Không tiền, không thời gian. Bọn trẻ cần cô ấy. Bố mẹ tôi phần cũng lo sợ cho họ - điều mà họ đã thừa nhận với tôi sau đó.
Nếu chính quyền biết về Lola, bố mẹ tôi có thể gặp rắc rối, thậm chí là bị trục xuất. Họ không thể mạo hiểm.
Sau khi bố mẹ qua đời, Lola cảm thấy bị sỉ nhục ghê gớm và im lặng suốt nhiều tháng. Cô thậm chí còn không phản hồi khi bố mẹ tôi vu vạ cô nhưng điều đó không làm bố mẹ tôi ngưng mắng nhiếc, bêu xấu cô.
Lola đáng thương chỉ biết cúi gằm đầu xuống rồi tập trung làm việc của mình.
Việc từ chức của bố tôi đã tạo nên một giai đoạn hỗn loạn cho gia đình sau đó. Tiền bạc bị xiết chặt hơn, bố mẹ tôi không nhìn mặt nhau.
Họ liên tục di chuyển cả gia đình từ Seattle đến Honolulu rồi quay lại Seattle tới vùng đông nam Bronx, và cuối cùng dừng chân ở thị trấn Umatilla, bang Oregon có dân số khoảng 750 người.
Trong suốt quá trình di chuyển này, mẹ tôi phải làm việc suốt 24 giờ trong vai trò là bác sĩ tập sự, sau đó là chính thức.
Bố tôi thì thường biến mất nhiều ngày, làm những việc vặt và thậm chí còn cải trang nữ. Một lần, ông trở về nhà và bảo đã “nướng” chiếc xe mới của cả nhà vào cờ bạc.
Trong nhiều ngày liên tiếp, Lola là người lớn duy nhất ở trong ngôi nhà. Cô ấy biết mọi thứ chi tiết trong cuộc sống của chúng tôi theo cái cách mà bố mẹ tôi không bao giờ biết, không bao giờ có thời gian để tâm đến.
Chúng tôi dẫn bạn bè về nhà, cô ấy nghe chúng tôi kể về trường học, chuyện trai gái và bất kì điều gì trong tâm trí chúng tôi. Lola thậm chí còn liệt kê được tên của những cô gái mà tôi thầm thương trộm nhớ từ lớp 6 cho đến khi vào trung học.
Khi tôi 15 tuổi, bố đã bỏ đi. Tôi không muốn tin vào điều đó, nhưng sự thật là ông đã bỏ rơi mẹ con tôi sau 25 năm kết hôn.
Vài năm sau đó, mẹ tôi không thể trở thành bác sĩ có giấy phép và chuyên ngành của bà lại không đặc biệt sinh lợi cho bệnh viện.
Bố thì không đưa tiền cấp dưỡng nuôi con, và thế là tiền bạc luôn là vấn đề quan trọng của gia đình tôi.
Mẹ tôi vẫn giữ đầu mình tỉnh táo, mạnh mẽ để đi làm kiếm tiền nuôi chúng tôi, nhưng đêm đến, bà sẽ chìm trong đau khổ và tuyệt vọng. Và đến lúc này, nơi duy nhất mẹ tìm thấy sự an ủi, thoải mái đó chính là Lola.
Họ nói chuyện nhiều hơn, nhiều lúc tôi thậm chí còn thấy họ còn cười khúc khích với nhau trong bếp.
Một đêm nọ, tôi nghe tiếng mẹ khóc, chạy vào phòng khách, tôi thấy mẹ đã gục ngã trong vòng tay của Lola.
Cô ấy đã dùng sự mềm mỏng nhất của mình để trò chuyện với mẹ, hệt như cách cô vẫn nói với chúng tôi khi còn bé. Tôi nán lại một lúc rồi quay trở lại phòng, sợ mình sẽ làm mẹ và Lola giật mình.
Cánh đồng ở Mayantoc - quê nhà của Lola (Ảnh: theatlantic)
Doods ngân nga bài hát nào đó suốt chặng đường dài, cũng chính giai điệu ấy đã đánh thức tôi dậy. “Hai giờ nữa”, người tài xế trấn an tôi.
Tôi liếc mặt kiểm tra hũ tro cốt của Lola rồi nhanh chóng phóng tầm mắt ra ngoài cửa sổ - đường cao tốc MacArthur. Tôi phàn nàn: “Này, hai giờ trước anh cũng bảo “hai giờ nữa” mà”, Doods chẳng thèm đáp trả, vẫn cứ ngân nga.
Anh ta không biết mục đích chuyến đi của tôi. Tôi chẳng thoải mái để bộc lộ nội tâm của mình. Tôi chẳng khá hơn bố mẹ mình là bao. Tôi đã có thể trả tự do cho Lola, giúp cuộc sống cô ấy tôi hơn nhưng tôi vẫn không làm thế.
Doods và tôi đi ngang qua những vùng đất xinh đẹp. Không phải những hình ảnh bóng bẩy trong mấy tấm thông tin du lịch mà là một vẻ đẹp rất thực, sống động.
Hai bên đường cao tốc là những dãy núi chạy song song: Zambales ở phía tây và Sierra Madre ở phía đông.
Cảnh vật trong mắt tôi giờ đây chỉ có một màu xanh ngắt của núi rừng. Doods chỉ tôi ngọn núi Pinatubo - nơi chịu thiệt hại nặng nề của lần phun trào núi lửa lớn thứ hai của thế kỷ 20.
Dòng dung nham đã nhấn chìm những ngôi làng cổ đại, lấp đầy các con sông, thung lũng, quét sạch toàn bộ hệ sinh thái.
Nó tiến sâu vào chân núi của tỉnh Tarlac - nơi ở của bố mẹ Lola, và cả mẹ tôi nữa. Rất nhiều hồ sơ, giấy tờ của gia đình tôi đã bị mất trong chiến tranh và giờ thì chúng đã bị chôn vùi dưới hơn 6 mét bùn lầy.
Vài năm sau khi bố mẹ tôi ly hôn, mẹ tôi tái hôn với Ivan - một người Croatia nhập cư quen biết với vài người bạn của mẹ. Ivan chưa học hết trung học, từng 4 lần kết hôn và là một con bạc hiếu chiến, thích được mẹ phục vụ tận răng.
Từ khi Ivan xuất hiện, Lola đã thể hiện con người mà chúng tôi chưa bao giờ nhìn thấy. Cuộc hôn nhân của mẹ và ông ta đã có vấn đề ngay từ lúc bắt đầu và tiền bạc - đặc biệt là việc ông ta sử dụng tiền của mẹ - là vấn đề chính.
Một lần nọ, khi cuộc cãi vã lên tới đỉnh điểm, mẹ tôi chỉ biết khóc trong tiếng gào thét của Ivan, Lola bước đến, đứng giữa hai người. Cô ấy nhìn Ivan và gọi tên ông ta một cách cứng rắn. Ivan nhìn vào Lola, chớp mắt rồi ngồi xuống.
Em gái tôi Inday và tôi lúc đó đang ngồi trên sàn. Ông ta nặng hơn trăm ký và tiếng bước chân của ông ta tôi tưởng như có thể rung lắc những bức tường. Vậy mà Lola có thể khiến ông ta ngồi vào vị trí chỉ bằng một từ.
Cảnh tượng ấy tôi được chứng kiến vài lần nữa nhưng hầu hết thời gian, tôi cũng thấy Lola phục vụ Ivan mà không nghi ngờ gì, hệt như mẹ tôi yêu cầu cô làm như vậy.
Nhìn thấy Lola phải phục vụ hết mình cho một người khác, đặc biệt là gã như Ivan khiến tôi rất buồn. Nhưng nếu tôi lên tiếng nói gì đó với mẹ, sẽ có chuyện xảy ra.
Mẹ tức giận mỗi khi Lola ốm. Bà không muốn đối mặt với sự gián đoạn trong công việc cũng như chi phí, và thế là bà đổ lỗi cho Lola không biết tự chăm sóc bản thân.
Đến tận những năm 1970, khi những chiếc răng của Lola bắt đầu gãy rụng, mẹ tôi mới bắt đầu lưu ý, dù cho Lola đã nói rất lâu trước đó. “Là do cô không đánh răng đúng cách”, mẹ tôi vặn vẹo Lola.
Tôi biết Lola cần được đến nha sĩ, ở tuổi 50, cô ấy chưa một lần đến kiểm tra răng từ lúc ra đời.
Nhưng Lola chỉ uống những viên aspirin mỗi ngày để giảm đau, răng cô ấy trông như đống đổ nát. Mỗi tối nhìn Lola rệu rã nhai miếng bánh mì ở bên không đau, tôi cảm thấy đau thay cô.
Tối đó tôi và mẹ cãi nhau để bảo vệ quan điểm khác nhau của chúng tôi. Mẹ bảo mẹ mệt mỏi với việc chăm sóc bệnh nhân nhưng đau khổ hơn khi nhìn thấy những đứa con của mình luôn đứng về phía Lola.
Mẹ còn dùng những từ ngữ tệ hại khác để nói về Lola nhưng tôi chẳng quan tâm. Tôi bỏ đi một lát rồi quay lại tiếp tục tranh luận.
Tôi không ngần ngại bảo mẹ tôi giả tạo, lừa dối và nếu mẹ chịu ngừng một phút xót xa đời mình, mẹ sẽ thấy Lola hiếm khi ăn bởi những chiếc răng thối rữa đang hành hạ và sẽ thấy Lola đáng được đối xử như một người bình thường chứ không phải như một nô lệ phục tùng mọi mệnh lệnh của mẹ.
“Nô lệ”, mẹ tôi vặn vẹo lại tôi rồi bà kết thúc cuộc tranh luận bằng quan điểm tôi sẽ không bao giờ hiểu được mối quan hệ giữa bà và Lola. Không bao giờ.
Giọng mẹ đau đớn lắm, đến nỗi giờ đây ngồi nghĩ lại, tôi còn cho rằng bà đau như thể khi đó có ai đấm vào dạ dày bà.
Phận làm con, sẽ rất kinh khủng nếu bạn ghét mẹ mình, nhưng tôi đã có cảm giác ấy vào đêm đó. Nhìn mắt mẹ, tôi nghĩ bà cũng có cảm giác như tôi.
Cuộc tranh cãi chỉ khiến mẹ lo sợ rằng Lola đã cướp con từ tay bà và mẹ bắt Lola phải trả giá. Mẹ cay nghiệt với Lola hơn, mẹ bảo: “Tôi hy vọng cô vui khi thấy bọn trẻ đang ghét cay ghét đắng tôi”.
Khi chúng tôi giúp Lola việc nhà, mẹ cáu tiết: “Cô đi ngủ được rồi đó Lola. Cô làm việc quá sức rồi, lũ trẻ đang lo lắng cho cô kìa”.
Nói rồi mẹ bắt Lola phải vào phòng ngủ của mẹ, nghe mẹ thuyết giảng để rồi khi Lola trở ra, đôi mắt cô ướt đẫm và sưng húp. Lola cuối cùng cũng phải xin chúng tôi đừng giúp đỡ cô ấy nữa...
Còn tiếp...
(Nguồn: theatlantic)